Đề thi HSG Lịch sử 9 huyện Phúc Yên năm 2014-2015
Gửi bởi: Nguyễn Minh Lệ 14 tháng 8 2021 lúc 21:40:20 | Được cập nhật: 21 giờ trước (13:48:19) | IP: 14.245.250.39 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 160 | Lượt Download: 0 | File size: 0.09728 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 9
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 8
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 7
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 6
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 5
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 4
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 2
- Đề thi học kì 1 Sử lớp 9 ĐỀ SỐ 3
- Đề thi học kì 1 Sử 9 trường THCS Chánh An năm 2015-2016
- Đề thi giữa kì 2 Sử 9 trường THCS Thạch Lộc năm 2020-2021
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
UBND THỊ XÃ PHÚC YÊN
PHÒNG GD&ĐT
ĐỀ CHÍNH THỨC
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP THỊ XÃ
NĂM HỌC 2014 – 2015
Môn: Lịch sử
Thời gian làm bài: 150 phút, không kể thời gian giao đề.
Câu 1. (2,0 điểm)
Chính sách khai thác thuộc địa Lần thứ nhất của Thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm
xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới:
a. Nêu những hiểu biết của em về các giai cấp, tầng lớp mới và thái độ của họ đối với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc?
b. Sự xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới đã tác động đến cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở nước ta đầu thế kỉ XX như thế nào?
Câu 2. (3,0 điểm)
Bằng những kiến thức lịch sử cụ thể trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920). Chứng minh rằng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước
đầu tiên đến với con đường cứu nước đúng đắn nhất.
Câu 3.(2,0 điểm)
Liên hợp quốc xác định một trong những nguyên tắc hoạt động là giải quyết các
tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Từ nguyên tắc này, hãy liên hệ với việc bảo vệ
chủ quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay.
Câu 4. (3,0 điểm)
Hãy nêu các xu thế phát triển của thế giới ngày nay? Tại sao nói xu thế “Hoà bình,
ổn định và hợp tác phát triển” vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với các dân tộc?
Nhân dân ta phải làm gì để tranh thủ thời cơ và vượt qua thách thức ấy?
------ Hết -----Họ và tên:……………………………….., SBD:…………………………
UBND THỊ XÃ PHÚC YÊN
PHÒNG GD&ĐT
Câu
Câu 1
2,0
điểm
Câu 2
3,0
điểm
HD CHẤM THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9
NĂM HỌC 2014 – 2015
Môn: Lịch sử
Nội dung
a. Học sinh nêu được những hiểu biết của mình về 3 các giai cấp,
tầng lớp mới và thái độ của họ đối với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc:
*Tầng lớp tư sản:
- Có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, chủ xưởng thủ
công, chủ hãng buôn…Họ bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản
Pháp chèn ép.
- Do bị lệ thuộc, tiềm lực kinh tế yếu ớt nên họ chỉ mong muốn điều
kiện để làm ăn, buôn bán dễ dàng, chưa có ý thức tham gia vào phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX.
* Tầng lớp tiểu tư sản thành thị:
- Họ chiếm một lực lượng đông đảo bao gồm chủ các xưởng thủ công
nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề
tự do. Cuộc sống của họ bấp bênh.
- Họ là những người có ý thức dân tộc đặc biệt là các nhà giáo, thanh
niên, học sinh nên tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu
thế kỉ XX.
* Giai cấp công nhân:
- Với lực lượng lúc đó khoảng 10 vạn, họ xuất thân từ nông dân, không
có ruộng đất nên phải bỏ làng ra các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí
nghiệplàm thuê. Lương thấp nên đời sống khổ cực.
- Họ bị áp bức bóc lột nặng nề nên sớm có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ
chống giới chủ nhằm cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt (Đòi tăng
lương giảm giờ làm…)
b. Sự xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới đã tác động đến cuộc vận
động phóng dân tộc ở nước ta theo xu hướng mới đầu thế kỉ XX :
Sự xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới đã tạo ra những điều kiện
bên trong , kết hợp với những trào lưu tư tưởng bên ngoài tràn vào, tạo
thành những điều kiện xã hội và tâm lí làm nảy sinh và thúc đẩy cuộc
vận động giải phóng dân tộc nước ta theo xu hướng mới đầu thế kỉ XX.
Qua quá trình hoạt động của NAQ (1911-1920 ) học sinh chứng
minh và khẳng định Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước
đầu tiên đến với con đường cứu nước đúng đắn nhất.
Chủ tich Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Tất Thành sinh ngày 19-51890 trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước. Sinh ra và lớn lên tại
Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An- nơi có có truyền thống đấu tranh anh
hùng bất khuất.
Người lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan dân nô lệ bần hàn và sớm
chứng kiến cảnh đế quốc phong kiến áp bức bóc lột thậm tệ nhân dân
ta. Chính vì vậy Người đã sớm dấn thân vào con đường hoạt động và
luôn luôn trăn trở về một con đường cứu nước cứu dân. Người chỉ có
một con đường ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà độc lập,
nhân dân được tự do ai cũng có cơm ăn áo mặc và được học hành.
Khác với các vị tiền bối cách mạng, Người chọn con đường sang
Điểm
0,25
0,25
0,25
0,25
0,25
0,25
0,5
0,25
0,25
0,25
Phương Tây , có ý nghĩa quan trọng để Người đến được với chủ nghĩa
Mác Lê-nin.
Giữa năm 1911, Người đã lấy tên là Nguyễn Văn Ba xuống làm phụ
bếp cho một chiếc tàu buôn Pháp để làm phương tiện đi ra nước ngoài
tìm đường cứu nước. Người đã bôn ba khắp các châu lục và đến nhiều
nước trên thế giới: Châu Phi, châu Mĩ, châu Âu. Người cũng làm nhiều
nghề để kiếm sống và hoạt động.
Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 12-1917, Nguyễn Ái
Quốc từ Anh trở về Pháp hoạt động trong phong trào công nhân tìm
hiểu cách mạng tháng Mười Nga. Từ đó Người quyết định ở lại Pháp để
học tập, tìm hiểu và tiếp tục con đường cứu nước. Năm 1918, Người
thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước và trở thành người lãnh
đạo Hội. Năm 1919, Người gia nhập Đảng xã hội Pháp –một đảng tiến
bộ dân chủ chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở
thuộc địa.
Tháng 6-1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước Nguyễn Ái
Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Véc-xai đòi
chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình
đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Tuy bản yêu sách không
được chấp nhận nhưng đã gây được tiếng vang lớn đối với nhân dân
Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Luận
cương của Lê-nin đã chỉ cho Người thấy con đường cứu nước cho dân
tộc đó là: Con đường cách mạng vô sản lấy chủ nghĩa Mác Lê-nin làm
nền tảng tư tưởng. Người khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chỉ có
con đường cách mạng do Mác Lê-nin vạch ra mới giải phóng được dân
tộc Việt Nam. Từ đó Người hoàn toàn tin theo Lê-nin và đứng về Quốc
tế thứ ba (Quốc tế cộng sản).
Tháng 12-1920, tại Đại hội của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn
Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia
sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này có ý nghĩa to lớn : đánh dấu
bước ngoặt trong hoạt động của NAQ , từ một người yêu nước trở thành
một người cộng sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác- Lê-nin
và đi theo con đường cách mạng vô sản.
Từ lòng yêu nước chân chính, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một người
cộng sản Việt Nam đầu tiên. Người chọn con đường cách mạng vô sản
trong đấu tranh giải phóng dân tộc và Người đã khẳng định rằng: “Trên
thế giới bây giờ, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác Lênin”. Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không còn con đường nào
khác ngoài cách mạng vô sản. Bởi vì:
Con đường cứu nước theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, theo cách mạng tháng
Mười Nga là con đường cứu nước duy nhất đúng đắn đối với dân tộc ta,
cũng như đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác, vì nó phù
hợp với sự phát triển của lịch sử.
Qua những hoạt động trên của Nguyễn Ái Quốc ,có thể khẳng định
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đến với con
đường cứu nước đúng đắn nhất.
0,25
0,25
0,25
0,5
0,25
0,5
0,25
Câu 3
(2,0
điểm)
Học sinh có thể liên hệ với tình hình thực tế hiện nay và đưa ra các ý
kiến cá nhân, giáo viên dựa theo các nội dung chính sau để chấm:
- Trước những biến động trên Biển Đông trong giai đoạn vừa qua như
việc Trung Quốc chiếm đóng một số đảo, hạ đặt giàn khoan Hải Dương 0,75
981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vây đuổi,
đâm chìm tầu cá của Việt Nam khai thác hợp pháp tại khu vực đảo
Trường Sa, Hoàng Sa… là vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên
hợp quốc, Việt Nam cần phải tuân thủ những nguyên tắc ứng xử và luật
pháp quốc tế là giải quyết bất đồng và tranh chấp bằng biện pháp hoà
bình được đưa trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982,
tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông đồng thời giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
- Phải giữ vững quan điểm đấu tranh hoà bình và có biện pháp
đấu tranh bằng pháp lí trên cơ sở giữ vững lập trường kiên quyết bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
- Đấu tranh bằng biện pháp Ngoại giao; lên án phản đối việc
dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp; đẩy mạnh tuyên truyền yêu cầu
các tầng lớp nhân dân chấp hành nghiêm những quy định của Chính 0,5
phủ, bình tĩnh, tin tưởng vào quan điểm, chủ trương và biện pháp giải
quyết của Đảng và Nhà nước, không có những hành động quá khích, vi
phạm pháp luật, kích động, xúi giục tụ tập đông người, biểu tình, tuần
hành tự phát, gây mất an ninh trật tự và gây khó khăn thêm cho việc
giải quyết bất đồng trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
- Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bảo vệ chủ quyền là nghĩa 0,75
vụ của mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Hiện nay chúng ta bảo vệ
chủ quyền trong thời kỳ hòa bình, cần phải giữ ổn định môi trường cho
sự phát triển, chúng ta phải dựa vào sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sự
ủng hộ của kiều bào ở khắp nơi trên thế giới, của bạn bè yêu chuộng
hoà bình trên thế giới. Chúng ta cần ủng hộ và động viên họ, để họ giúp
đỡ, cung cấp các tài liệu liên quan và nhờ họ quảng bá hình ảnh Việt
Nam trên trường quốc tế có như vậy thì việc khẳng định chủ quyền và
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc sẽ thành công.
Câu 4
3,0
điểm
*Các xu thế phát triển của thế giới ngày nay:
- Sau hơn 40 năm chạy đua vũ trang quá tốn kém và mệt mỏi, vào cuối
tháng 12-1989, Tổng thống Mĩ Busơ và Tổng Bí thư Đảng cộng sản
Liên Xô Gooc–ba-chop cùng tuyên bố chấm dứt tình trạng “Chiến tranh
lạnh”. Từ đó, trong quan hệ quốc tế có nhiều biến chuyển. Đặc biệt từ
sau năm 1991, thế giới bước sang thời kì sau Chiến tranh lạnh. Nhiều
xu hướng mới xuất hiện như:
- Một là, xu thế hoà hoãn và hoà dịu trong quan hệ quốc tế.
Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, các nước lớn tránh xung đột trực
tiếp, đối đầu nhau. Các xung đột quân sự ở nhiều khu vực đi dần vào
thương lượng, hoà bình giải quyết các tranh chấp.
Hai là, sự tan rã của Trật tự hai cực I-an-ta và thế giới đang tiến tới xác
lập một Trât tự thế giới mới đa cực, nhiều trung tâm. Nhưng Mĩ lại chủ
chương “thế giới đơn cực” để dễ bề chi phối, thống trị thế giới.
Ba là, từ sau “Chiến tranh lạnh” và dưới tác động to lớn của cuộc cách
mạng khoa học-kĩ thuật, hầu hết các nước đều ra sức điều chỉnh chiến
0,25
0,25
0,25
0,25
lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm. Biểu hiện của nó là các nước
đều đẩy mạnh sản xuất và tích cực tham gia vào các liên minh kinh tế
khu vực để cùng nhau hợp tác và phát triển, như Liên minh châu Âu
(EU), Hiệp hội các nước ĐNA (ASEAN), mà Việt Nam là một thành
viên từ năm 1995.
Bốn là, tuy hoà bình thế giới được củng cố, nhưng từ đầu những năm 90
của thế kỉ xx, ở nhiều khu vực lại xảy ra những vụ xung đột quân sự
hoặc nội chiến đẫm máu giữa các phe phái với những hậu quả nghiêm
trọng ( như châu Phi, Trung Á…)
Tuy nhiên, xu thế chung của thế giới ngày nay là hoà bình ổn định và
hợp tác phát triển kinh tế. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với
các dân tộc khi bước vào thế kỉ XXI.
“Hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển” vừa là thời cơ vừa là thách
thức đối với các dân tộc vì:
+ Là thời cơ:
- Hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển là điều kiện quan trọng để phát
triển kinh tế, thu hút sự đầu tư nước ngoài vào trong nước.
- Mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị có thể nhanh chóng đưa đất nước
tiến lên kịp với thời đại.
- Từ sau năm 1945, các nước tư bản có xu hướng liên kết kinh tế khu
vực, do đó sự hợp tác phát triển là điều kiện quan trọng để giao lưu, hoà
nhập, học tập, áp dụng những thành tựu kinh tế-văn hoá của mỗi nước
- Hơn nữa xu thế phát triển của thế giới chuyển dần sang xu thế hoà
bình và đối thoại nên “Hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển” đã đi đúng
xu thế thời đại, thực sự tạo thời cơ phát triển cho mỗi nước.
+ Là thách thức lớn vì:
- Hoặc là nhanh chóng tiến kịp với thời đại, hoặc là sẽ bị tụt hậu rất xa,
hoặc là “hoà đồng”, hoà nhịp được với xu thế phát triển của thời đại,
hoặc bị hoà tan, đánh mất mình, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc
* Việc làm của nhân dân ta để tranh thủ thời cơ và vượt qua thách
thức:
- Để tranh thủ thời cơ nước ta cần mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị
với các nước, đồng thời thu hút sự đầu tư nước ngoài để phát triển kinh
tế đất nước đưa đất nước tiến lên kịp với thời đại.
- Hơn nữa cần có những chính sách đầu tư phát triển tốt cho kinh tế-xã
hội đất nước để đưa đất nước nhanh chóng tiến kịp thời đại, không bị
tụt hậu so với thế giới…
0,25
0,25
0,25
0,25
0,5
0,25
0,25
(Lưu ý: Trên đây là những nội dung cơ bản nhất mà khi làm bài học sinh phải đề cập tới. Bài viết
phải đủ nội dung, chính xác, chặt chẽ, lôgic, trình bày khoa học theo yêu cầu của học sinh giỏi thì
mới cho điểm tối đa . Có thể thưởng điểm cho bài viết có tính sáng tạo)