Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Đề cương ngữ văn lớp 11

d41d8cd98f00b204e9800998ecf8427e
Gửi bởi: Thành Đạt 27 tháng 10 2020 lúc 23:03:18 | Được cập nhật: 19 tháng 4 lúc 22:26:19 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 375 | Lượt Download: 1 | File size: 0.039599 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Đề cương ôn thi ngữ văn lớp 11 kì 2
Từ Ấy
( Tố Hữu )
1.Tác giả : Tố Hữu, trước tiên ông được nhớ tới là ngọn cờ chiến đấu của thơ
ca Cách mạng Việt Nam. Thơ ông ca ngợi về Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt
Nam.Thi sĩ vừa là nhà thơ đồng thời cũng là người chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa – văn nghệ, là cánh chim đầu đàn của thơ ca Cách Mạng. Mỗi một nhà
thơ lại có cho mình một sở trường, một phong cách và ở Tố Hữu đó là phong
cách thơ : Trữ tình chính trị. Giọng điệu thơ thủ thỉ, mộc mạc, tâm tình, sâu
lắng đi sâu vào trái tim của bạn đọc, từ ngữ giản dị, chân phương, còn chính
trị là bởi 7 tập thơ trong sự nghiệp sáng tác của ông song hành cùng con
đường Cách Mạng.
2.Tác phẩm: Từ Ấy là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, với tác phẩm cùng tên
sáng tác vào tháng 7 năm 1938 được xem như là dấu mốc quan trọng trong
cuộc đời Cách Mạng của nhà thơ.Một người trí thức trẻ bắt gặp lý tưởng sống
của đời mình.Tập thơ gồm 71 bài được sáng tác trong khoảng thời gian từ
năm 1936 đến năm 1946 cũng có tên là Từ Ấy gồm ba phần là: “máu lửa
( gồm 27 bài tập trung vào những vấn đề lớn của thời đại nhưng chống phát
xít,phong kiến, đòi hòa bình), xiềng xích (gồm có 30 bài viết trong tù thể hiện
nỗi buồn đau và ý chí khí phách của người chiến sĩ cách mạng chốn lao tù.
“Giải phóng” gồm 14 bài thơ viết từ lúc vượt ngục cho tới khi độc lập, ngợi
ca lý tưởng, quyết tâm đuổi giặc và niềm vui chiến thắng.Tác phẩm thuộc vào
phần “máu lửa”, nội dung của tập thơ phản ánh rõ nét quá trình trưởng thành
và giác ngộ của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Ý nghĩa nhan đề : Từ Ấy là một từ chỉ mốc thời gian đặc biệt quan trọng và
mang ý nghĩa bước ngoặt và tạo lối rẽ mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố
Hữu.Với bản thân nhà thơ, từ ấy chính là một mốc thời gian cụ thể khi ông
sung sướng bắt gặp lý tưởng lý tưởng của Đảng cũng như thấy gắn bó với
nhân dân cần lao.

Bài viết tham khảo
Trong nền văn học Việt Nam , Tố Hữu luôn được nhớ tới là cánh chim đầu
đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam.Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản ,
ông được giác ngộ và trở thành một người chiến sĩ cộng sản.Thơ ông luôn
gắn liền với cuộc sống, chính trị, thời sự, đất nước.Từ ấy là bài thơ mang ý
nghĩa mở đầu cũng như là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách
mạng được giác ngộ với cuộc sống cũng như là tuyên ngôn nghệ thuật của
nhà thơ.Đọc bài thơ ta nhận ra đó là những sự chuyển biến sâu sắc và tích cực
trong ý thức trách nhiệm, niềm hân hoan vui sướng được đến với ánh sáng
của lý tưởng cách mạng.Tác phẩm gồm ba khổ thơ, mỗi khổ lại mang một nội
dung khác nhau thể hiện sự chuyển biến trong tư tưởng của chính Tố Hữu.
Khổ 1 : Niềm vui sướng say mê khi bắt gặp được lý tưởng
Khổ 2 : Ý thức trách nhiệm của người chiến sĩ cách mạng với nhân dân,
những tư tưởng mới mẻ về cách sống.
Khổ 3 : Từ nhận thức về ý thức trách nhiệm đến sự thay đổi về tâm tư tình
cảm sâu sắc.
Trước tiên là hai câu thơ đầu, tác giả viết theo lối tự sự , kể lại kỉ niệm không
quên của đời mình :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Từ Ấy mà tác giả đề cập tới đó chính là năm 1938 khi Tố Hữu đang hoạt
động sôi nổi trong Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Huế và được kết nạp vào
Đảng Cộng Sản Đông Dương. Được đứng trong hàng ngũ của những con
người đi tiên phong.Những từ như nắng như mặt trời đều là những hình ảnh
gợi lên vầng nóng ấm, ánh sáng là nguồn gốc của vạn vật. Nếu từ “bừng” thể
hiện ánh sáng đến một cách đột ngột thì “chói” lại thể hiện ánh sáng xuyên
mạnh.Thơ ca là điệu hồn của những tâm hồn đồng điệu, hình ảnh “Mặt trời
chân lý” của Tố Hữu cũng tương đồng với mặt trời nước Nga ta từng bắt gặp
trong tác phẩm : “ Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên
khi viết về Cách mạng tháng 10 nga:

“Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc”
Tác giả khẳng định rằng lý tưởng Cách Mạng đã đến và làm bừng sáng ,
bừng tỉnh tâm hồn ông.Ánh sáng ấy rực rỡ , không phải là ánh thu vàng nhẹ
hay ánh xuân dịu dàng mà lại là nắng mùa hạ.Bằng việc liên kết một cách
tinh tế và sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa, mặt trời chân lý là nghệ thuật
ẩn dụ tượng trưng cho ánh sáng của Đảng, Cách Mạng, Bác Hồ.Tâm hồn là
một khái niệm trừu tượng, thế nhưng thi sĩ đã khéo léo so sánh với một khu
vườn đầy hoa lá.Khiến một khái niệm vô hình trở nên hữu hình.Cây cỏ hoa lá
trong vườn kể từ khi có nắng, có mặt trời chân lý bỗng như bừng tỉnh, hiểu
theo nghĩa hàm ẩn kể từ khi có Đảng, đời sống của người dân Việt Nam ấm
no hạnh phúc.Một khu vườn đầy tiếng chim ca, cây cỏ bừng tỉnh hồi sinh.
Qua khổ thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã đến với lý
tưởng Cách mạng bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và nhận thức, bằng tất
cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý
tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả người đọc chúng ta.
Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của nhà thơ mà còn
thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên công cuộc chuyển biến
mạnh mẽ trong lý trí của người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi.
"Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu
là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên những người lao động
nghèo vì thế ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm
tình của giai cấp vô sản. Thế nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao
quý ấy, ông đã nhận ra rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái

ta chung của xã hội, của mọi người. Chính vì thế, ông tình nguyện "buộc
lòng" mình với "mọi nhà" để mà cảm nhận được, để mà hòa chung với "bao
hồn khổ" khác. Động từ "buộc" ở đây không có nghĩa là bắt buộc mà trái lại
nó lại là một hành động tự nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố
Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.
Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, "trang trải" để tâm hồn
mình được trải rộng ra với cuộc đời mà thấu hiểu, đồng cảm với mỗi con
người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có
được sự chuyển biến vô cùng lớn lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư
sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.
Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn "bâng khuâng" mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã
hiểu được rằng tình thần đoàn kết, sự yêu thương dành cho quần chúng lao
động, sự sát cánh cùng nhau của nhà thơ với những kiếp người sẽ tạo nên
nguồn sức mạnh to lớn. Hình ảnh thơ được nhà thơ sử dụng "khối đời" là
hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung cảnh ngộ với nhau, cùng
đồng sức đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, đoàn kết chặt chẽ với
nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy quyền sống,
quyền được độc lập tự do.
Nhà thơ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với thế giới xung
quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không còn thờ ơ trước cuộc
đời nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và
bằng cả trái tim giàu tình yêu thương, hữu ái giai cấp nữa. Để miêu tả điều
đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của
mình cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào tinh thần đoàn
kết của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta chung của mọi con
người.
Nhận thức luôn song hành cùng tình cảm, lý trí luôn song hành cùng tâm hồn.
Vậy nên nếu như ở khổ trên, nhà thơ đã nhận thấy sự chuyển biến trong nhận

thức của mình thì ở đây, nhà thơ lại nhận thấy sự chuyển biến thật mạnh mẽ
trong tình cảm của mình.
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ".
Tấm lòng kiên trung của người chiến sĩ trẻ muốn mang đến cho những lớp
người kia có được áo cơm, có được sự bình an, no ấm, bớt đi nỗi cực nhọc.
Chính vì vậy, ở khổ thơ cuối này, ông đã khẳng định vị thế của mình, khẳng
định trách nhiệm cũng như mong ước được chở che, bao bọc, gắn bó với mọi
người.
Ông tự nhận mình là "con", "là em", "là anh" của "vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu
em nhỏ". Ông coi những người ở tầng lớp vô sản ngoài kia là ruột thịt của
mình, đặt lên vai mình thứ trách nhiệm nặng nề, ông muốn được gắn bó với
họ, cùng nhau gánh vác, cùng nhau chia sẻ chứ không muốn trở thành một kẻ
bề trên mà ban ơn cho họ.
Động từ "đã là" cho thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của ông dành cho mọi
người và thứ tình cảm ấy dường như đã có từ rất lâu. Đặt trong tình huống,
Tố Hữu vốn là một tiểu tử sản, vốn là tầng lớp đề cao lối sống cá nhân, vị kỷ
vậy mà ở đây, ông lại san sẻ tất cả tình cảm của mình mà không hề tính toán,
so đo. Có lẽ chính cái lý tưởng Cách mạng ấy đã soi đường, đã chiếu rọi biến
đổi nhận thức cũng như tình cảm của Tố Hữu.
Nhà thơ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp trong
xã hội để hòa mình vào trong giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm
chân thành. Thế mới biết sức mạnh của lý tưởng Cách mạng to lớn đến
nhường nào, nó đã cảm hóa, biến đối những người trí thức tiểu tư sản, vốn có
lối sống cá nhân, biến họ trở thành những con người của Cách mạng, trở
thành những thi sĩ của Cách mạng, không còn quẩn quanh trong cái chủ nghĩa

cá nhân ích kỉ. Điều này, chúng ta không chỉ thấy riêng ở Tố Hữu mà còn
trong lớp các nhà thơ nhà văn khác như Huy Cận, Xuân Diệu, …
Với thể thơ thất ngôn quen thuộc, cùng cách thể hiện đầy nhịp nhàng, khúc
chiết, nhà thơ đã viết lên một tác phẩm với những cảm xúc chân thành nhất
để ca ngợi sức mạnh của lý tưởng Cách mạng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh
hết sức thú vị đã diễn tả niềm vui, niềm hân hoan, vui sướng vô bờ của một
chàng trai trẻ khi đang băn khoăn tìm lối đi cho cuộc đời thì bắt gặp được ánh
sáng của Cách mạng chiếu rọi để từ đó dấn thân vô, hòa nhập với các mối
quan hệ, với các tầng lớp khác đấu tranh cho quyền sống, độc lập tự do của
dân tộc. Ngôn từ trong thơ vô cùng chân thành, giản dị, hình ảnh thơ được so
sánh, bộc lộ tư tưởng Cách mạng rất sâu sắc. Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu
trong thơ ca Cách mạng.

Chiều tối ( Mộ )
Hồ Chí Minh
Bài viết tham khảo
“Nhật ký trong tù ” của Hồ Chí Minh được viết từ những năm 1942-1943 của
thế kỉ trước khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô
cớ, đầy đoạ khắp các nhà lao tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133
bài thơ của tập “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) có một số bài ghi lại
những thời khắc đáng nhớ trong ngày: Buổi sớm, Chiều hôm, Chiều tối,
Hoàng hôn, Nửa đêm... Nếu theo dõi toàn bộ tập thơ ta sẽ thấy có một đề tài
cứ trở đi trở lại là cảnh chuyển lao, bắt đầu cũng chỉ là một nhà tù và kết thúc
cũng chỉ là một nhà lao. Có cảnh áp giải đi bằng thuyền, cũng có cảnh đi bộ,
lại có lần bị giải đi từ rất sớm.
"Chiều tối” (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong “Nhật ký trong tù”. Bài
thơ số 32 là bài “Đêm ngủ ở Long Tuyền". Từ đó ta thấy bài “Chiều tối” ghi
lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền
vào tháng 10/1942. Ở chiều tối điều ta cảm nhận được rõ nhất đó chính là sự
hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, tâm hồn của một thi sĩ phương Đông và
chất thép cao cường của một người tù cộng sản.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mụn độ thiên không,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Hai câu đầu Bác miêu tả về quang cảnh bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ
“động” cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng, tìm cây trú ẩn, một áng
mây cô đơn, lẻ loi ( cô vân) đang lửng lơ trôi (mạn mạn). Cấu trúc hai câu thơ
đăng đối, âm điệu thơ nhẹ, thoáng buồn.Bác sử dụng cánh chim chiều như
người xưa để gọi về thời gian nhưng Người lại nhìn thấu cả vào trong sự vật
hiện tượng, điều này được thể hiện rõ ở từ “quyện” mệt mỏi sau ngày dài lam
lũ kiếm sống.Nét hiện đại là không bay về nơi vô định như trong thơ ca xưa,
cánh chim ấy bay về rừng để tìm chốn ngủ, phải chăng đó là khát vọng đoàn
viên của người tù cộng sản như Bác khi đang bị bắt giam ở nơi đất khách quê

người. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim
bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng nhớ nhà, nhớ quê hương. Câu thơ dịch của
Nam Trân tuy chưa thể hiện được chữ “cô ” trong “cô vân ” mất đi ý nghĩa
của sự cô đơn, cô quạnh, cô lẻ trong một ngày dài bị áp tải.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”.
Hai câu thơ khai và thừa mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều chỉ 2 nét
phác họa (chim bay về rừng, mây chậm chậm bay) mà gợi lên cái hồn cảnh
vật, ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang
trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được vận dụng
sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh
chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính
ước lệ, nó mở rộng liên tưởng trong tâm hồn mỗi chúng ta,bởi thơ ca là điệu
hồn của những tâm hồn đồng điệu, khiến liên tưởng về một cánh chim bay
trong “Truyện Kiều”:
“Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành”;
nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ khách trong chiều
sương lạnh nhớ nhà:
“Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Trở lại bài “Chiều tối”, áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu
trời là hình ảnh ẩn dụ về bước chân đi chậm chậm và cô đơn lẻ loi của người
tù cộng sản trong một ngày dài bị áp tải! Tiếc rằng dịch giả đã dịch “mạn
mạn” thành trôi nhẹ, chưa thực sự sát nghĩa.
Tiếp theo ta quan tâm tới hai câu cuối 3-4 (chuyển-hợp) từ cảnh bầu trời tác
giả nói về cuộc sống con người nơi xóm núi.Trong một bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt thì câu chuyển sẽ mang vai trò khép lại ý cũ và mở ra ý mới.Câu thơ
thứ ba đã làm tròn vai trò ấy khi tạm khép lại cảnh buổi chiều tàn và mở ra ở
đó là cảnh sinh hoạt của con người nơi xóm núi.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
Câu thơ địch: “Cô em xóm núi xay ngô tối", với 2 chữ cô em đã làm mất đi
sự trang trọng trong thơ Bác, đây cũng là một lỗi cần khắc phục trong bản
dịch thơ của Nam Trân. Hình ảnh ma bao túc và bao túc ma hoàn thể hiện
vòng quay đều đặn của cối xay ngô, đều đặn và luẩn quẩn phải chăng đó là
Bác đang phê phán kiếp đời con người Trung Quốc bị áp bức bất công dưới
chế độ Tưởng Giới Thạch.Sự vật như nối liếp theo dòng chảy thời gian mà
xuất hiện: Khi ngô xay xong than đã rực hồng, sáng bừng lên, vô cùng ấm áp.
Khi màn đêm đã bao mịt mùng, lò than đỏ rực lên, cảnh vật ấy thu hút tâm trí
người tù đang bị giải đi. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực
hồng tượng trưng cho một mái ấm đoàn tụ gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi
cô đơn tĩnh mịch. Hướng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay
ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, khi chân tay mang nặng xiềng xích,
bị giải đi trong chiều tối vậy mà Bác vẫn dành tình thương cho người
khác.Một cô gái nhà nông đang lao động một mình.Ta vẫn nghĩ rằng tên của
tác phẩm là chiều tối có nghĩa mở ra tác phẩm là buổi chiều nhưng khép lại
tác phẩm sẽ là buổi tối.Nhưng trong thơ Bác nhãn tự của tác phẩm lại chính
là từ “hồng”, một màu đỏ gợi cảm hứng về tương lai.Phải chăng từ những
năm 42,43 của thế kỉ trước nhưng Bác đã thấy màu hồng của cuộc Cách
Mạng năm 1945 nhất định sẽ thành công thắng lợi.
“Chiều tôi” - một bài thơ mang màu sắc cổ điển nhưng lại được kết hợp khéo
léo vẻ đẹp hiện đại mang đậm nét sáng tạo của riêng tác giả. Tứ thơ vận động
từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh
tế, thể hiện một hồn thơ "bát ngát tình”. Bài thơ thấm đượm một tình yêu
mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn
Bác vẫn dào dạt sự sống, tin tưởng vào tương lai.Không cần phải lên giọng
thép , nói chuyện thép nhưng thơ Bác vẫn ngập tràn tinh thần thép, sức chiến
đấu của người tù cộng sản mà không một nhà tù nhà lao nào có thể giam giữ
được.

Vội vàng
(Xuân Diệu )
Bài viết tham khảo
“Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn non nước
lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng,
sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình” (Trích
“Thi nhân Việt Nam”). Nhận định của nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã
đánh giá về những đặc sắc chủ yếu trong sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu gương mặt tiêu biểu và có nhiều đóng góp nổi bật cho sự phát triển của
phong trào thơ Mới.
Một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này chính là “Vội vàng”. Qua bài
thơ, chúng ta thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, lòng ham sống
mãnh liệt cùng quan điểm sống tích cực của tác giả. Trước hết, bài thơ “Vội
vàng” đã thể hiện ý nguyện, tâm thế và mong muốn hành động của tác giả
trước bước đi của thời gian:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Trước vòng quay “một đi không trở lại” của dòng thời gian, tác giả Xuân
Diệu muốn nắm bắt và giữ lấy từng khoảnh khắc qua việc muốn “tắt nắng”
để sắc màu không phôi pha, muốn “buộc gió” không cho hương sắc bay đi.
Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần đã khẳng định ý nguyện của cái
“tôi” tha thiết muốn giữ lấy vẻ đẹp chóng tàn phai của thiên nhiên; đồng thời
làm nổi bật tâm hồn của một thi sĩ yêu đời, say mê thiên nhiên và trân trọng,
nâng niu cuộc sống. Và tình yêu tha thiết, mãnh liệt này đã được phác họa rõ
nét hơn ở những câu thơ tiếp theo:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp nhịp điệu thơ nhanh và dồn dập,
mọi thanh âm, mọi sắc màu, hình ảnh của bức tranh thiên nhiên đều hiện hữu
sinh động trước mắt người đọc. Điệp từ “Này đây” vang lên đầy say mê, thể
hiện mọi giác quan của người thi sĩ đều rung lên để đón nhận, để tận hưởng
vẻ đẹp của tạo hóa, của đất trời trong sức xuân và sắc xuân. Đó là những vẻ
đẹp hữu hình như “hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ phơ phất”.
Đó còn là vẻ đẹp vô hình như khúc ca tình yêu mang âm điệu say mê cuồng
nhiệt của cặp “yến anh”, là nguồn sáng vội vã chớp qua hàng mi,.... Đặc biệt,
Xuân Diệu đã so sánh “tháng giêng” - khái niệm thời gian vô hình như “cặp
môi” – sự vật cụ thể trong mối quan hệ “ngon” – “gần” để đem đến một cảm
nhận vô cùng độc đáo, mới mẻ, khiến cho bức tranh thiên nhiên nơi trần gian
hiện lên đẹp đẽ, tươi mới, căng tràn sức sống như “một thiên đường trên mặt
đất”.
Thi nhân vận dụng mọi giác quan để tận hưởng vẻ đẹp của tạo vật, thiên
nhiên nhưng vẫn không quên đi ý thức về sự trôi chảy của thời gian: “Tôi
không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Bởi vậy, ông đắm say, cuồng nhiệt cùng
cảnh sắc đất trời nhưng vẫn không ngừng chiêm nghiệm về dòng thời gian
trôi, về tình yêu và tuổi trẻ:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lạị
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Là một nhà thơ với thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, Xuân Diệu không
chỉ thấy được quy luật tuần hoàn của dòng thời gian: “Xuân tàn, hạ tới, thu
hết, đông sang” mà còn nắm rõ “phép biện chứng” mang tính tuyến tính,
“một đi không bao giờ trở lại” của từng phút giây.
Qua cách cảm nhận: “xuân đương tới” – “xuân đương qua”, “xuân còn non”
– “xuân sẽ già”, dòng chảy vô hình của thời gian đã được khắc họa rõ nét,
khiến cho dù thi nhân đang cảm nhận mùa xuân tươi đẹp, căng tràn sức sống
cũng chính là mùa xuân đang ở viễn cảnh “sẽ già”, sẽ tàn phai, sẽ héo úa.
Nhưng điều đặc biệt nhất trong quan niệm của Xuân Diệu chính là thời gian
vũ trụ không đồng nhất với thời gian của đời người, nghĩa là “xuân qua” rồi
xuân sẽ lại “tới” trong sự tuần hoàn của đất trời, nhưng tuổi trẻ, đời người thì
“chẳng hai lần thắm lại”.
Bởi vậy, ông cho rằng điều đẹp nhất của con người chính là tuổi trẻ và tình
yêu. Và từ đó, “ông hoàng thơ tình” luôn nuối tiếc mùa xuân, nuối tiếc tuổi
trẻ bằng lòng ham sống, lòng yêu đời mãnh liệt cùng quan niệm sống “vội
vàng” và chủ động chạy đua với thời gian:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây thâu và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”
Cụm từ ta muốn ôm được đẩy vào giữa câu thơ như hình ảnh của một chàng
Xuân Diệu đang đưa đôi tay của mình ra muốn ôm trọn mọi thứ vào lòng.Nếu
như ở đầu tác phẩm là một cái tôi đầy bản lĩnh thì tới đây đã trở thành ta.Ông
đưa ra quan điểm của mình như cất lên tiếng nói của người trẻ hãy tận hưởng
cuộc sống khi cuộc đời đẹp nhất.
Điệp từ “Ta muốn” được đặt ở đầu câu vang lên đầy dõng dạc, kết hợp với
hàng loạt động từ theo cấp độ tăng tiến: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu” đã làm
nổi bật tư thế chủ động tận hưởng mọi vẻ đẹp của cuộc sống ở độ tươi mới
nhất, căng tràn nhất của cái “tôi” trữ tình. Ông nhìn nhận tuổi trẻ , mùa xuân
và cuộc đời như một trái chín căng mọng mà bất cứ ai cũng muốn được cắn
vào và tận hưởng một cách trọn vẹn nhất.

Lòng ham sống cùng niềm say mê cuồng nhiệt đó chính là động lực để thôi
thúc Xuân Diệu “sống vội vàng, sống cuống quýt” (theo cách nói của nhà phê
bình văn học Hoài Thanh), nhưng sự vội vàng đó không hề tiêu cực, không
phải là sống vội sống hưởng thụ mà đó là một quan điểm sống mới mẻ và đầy
tích cực, trân trọng từng phút giây, cháy hết mình với cuộc đời. Niềm vui
sống và tinh thần lạc quan của tác giả. Đây là một quan điểm sống tích cực,
tiến bộ và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với mỗi một con người.
Như vậy, qua việc phân tích bài thơ vội vàng, chúng ta có thể thấy được tài
năng của thi sĩ Xuân Diệu trong cách sử dụng ngôn từ và vận dụng nhuần
nhuyễn các biện pháp nghệ thuật. Tất cả các yếu tố đó kết hợp với nhau trong
sự hài hòa, tinh tế, góp phần khắc họa hình tượng nhân vật trữ tình với tình
yêu thiên nhiên tha thiết cùng niềm ham sống, lòng yêu đời cuồng nhiệt và
nổi bật hơn cả là quan niệm sống “vội vàng” chạy đua với thời gian để nắm
bắt lấy những gì đẹp nhất của tuổi trẻ, của tình yêu.

Tràng Giang
( Huy Cận )
Bài viết tham khảo
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng
định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê
quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách
mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp
của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ
ca", Kinh cầu tự"... Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở
nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước
của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc
đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy
Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ
hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ
Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi
buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang
nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét
hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài
thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm
"ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không
chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang"
mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong
thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm
tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng
sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện
cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong

hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư,
buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp
đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc
chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời
rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con
người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử
dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u
sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng
đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung
động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu
tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên
này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm
sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy
sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên
nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên
dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền
xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao
chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài
và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm
ắp trong lòng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào
thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách
"thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong
lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số
"mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc:
"Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết
hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la.
"Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống,
"lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên
nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh
giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy
trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi
mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại
để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở
các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất
thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không
chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ
tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian
lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng
thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu
hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một
khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ
thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều
sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi
"đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự
hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một
sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để
xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả
sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là
cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại.