Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ LỚP 12

d41d8cd98f00b204e9800998ecf8427e
Gửi bởi: Thành Đạt 26 tháng 10 2020 lúc 0:32:00 | Được cập nhật: hôm kia lúc 16:27:47 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 588 | Lượt Download: 2 | File size: 0.125244 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 2000
Chương I: Trật tự thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ
hai (1945 – 1949)
A. Mục tiêu ôn tập
– Học sinh trình bày được hoàn cảnh thời gian, địa điểm, thành phần
tham dự và những quyết định quan trọng của Hội nghị Ianta và tác
động của các quyết định đó đối với sự hình thành trâtị tự thế giới
mới.
– Trình bày được sự thành lập, mục đích, nguyên tắc hoạt động cơ
bản của Liên hợp quốc, đánh giá được vai trò của Liên hợp quốc từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai.
– Phân tích được đặc trưng cơ bản của thế giới sau Chiến tranh thế
giới thứ hai là chia thành hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa do hai siêu cường Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi phe. Đây là
nhân tố chủ yếu chi phối các quan hệ quốc tế và nền chính trị thế
giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
– Giải thích được khái niệm: trật tự hai cực Ianta.
B. Nội dung ôn tập
I. Hội nghị Ianta (2/1945) và những thoả thuận của ba cường
quốc.
1. Hoàn cảnh lịch sử:
– Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, nhiều vấn đề
quan trọng và cấp bách đặt ra trước các nước Đồng minh:
Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa phát xít
 Tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh
 Phân chia thành quả giữa các nước thắng trận
– Từ 4-11/2/1945, hội nghị quốc tế được triệu tập tại Ianta (Liên Xô)
với sự tham dự của nguyên thủ 3 cường quốc là Liên Xô, Mĩ, Anh
nhằm giải quyết các vấn đề trên.


2. Những quyết định quan trọng của Hội nghị
– Đẩy mạnh việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân
phiệt Nhật.
– Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh
thế giới.
– Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân
đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á:


Ở châu Âu: quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức,
Đông Beclin và các nước Đông Âu; quân đội Mĩ, Anh và Pháp

chiếm đóng miền Tây nước Đức, Tây Beclin và các nước Tây Âu.
Vùng Đông Âu thuộc ảnh hưởng của Liên Xô; vùng Tây Âu thuộc
phạm vi ảnh hưởng của Mĩ. Hai nước Áo và Phần Lan trở thành
những nước trung lập.
 Ở châu Á: Hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô để
tham chiến chống Nhật bản: 1- Giữ nguyên trạng Mông Cổ; 2Trả lại cho Liên Xô miền Nam đảo Xakhalin và các đảo xung
quanh; quốc tế hoá thương cảng Đại Liên (Trung Quốc) và khôi
phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận; Liên Xô cùng Trung Quốc
khai thác đường sắt Nam Mãn Châu – Đại Liên; Liên Xô chiếm 4
đảo thuộc quần đảo Curin.
 Quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản; ở bán đảo Triều Tiên, quân
đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc và quân đội Mĩ chiếm đóng
miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới; Trung Quốc cần trở
thành một quốc gia thống nhất; quân đội nước ngoài rút khỏi
Trung Quốc. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc cần cải tổ với sự
tham gia của Đảng Cộng sản và các đảng phái dân chủ, trả lại
cho Trung Quốc vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo
Bành Hồ; các vùng còn lại của châu Á vẫn thuộc phạm vi ảnh
hưởng của các nước phương Tây.
3. Nhận xét:
– Thực chất của Hội nghị Ianta là sự phân chia khu vực đóng
quân và khu vực ảnh hưởng giữa các nước thắng trận, có liên
quan tới hoà bình, an ninh và trật tự thế giới về sau.
– Những quyết định quan trọng của Hội nghị và những thoả thuận
sau đó trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới (trật tự
hai cực Ianta). Theo đó, thế giới được chia thành hai phe do hai
siêu cường đứng đầu mỗi phe, đối đầu gay gắt trong gần 4 thập
niên, làm cho quan hệ quốc tế luôn trong tình trạng phức tạp, căng
thẳng.
II. Sự thành lập Liên hiệp quốc
1. Sự thành lập:
– Đầu năm 1945, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc,
các nước đồng minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng gìn giữ
hoà bình, ngăn chặn chiến tranh thế giới.
– Tại Hội nghị Ianta (2/1945), ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh nhất trí
thành lập một tổ chức quốc tế nhằm gìn giữ hoà bình, an ninh thế
giới.
– Từ ngày 25/4 đến 26/6/1945, đại biểu 50 nước họp tại Xan
Phranxicô (Mĩ) thông qua bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ
chức Liên hợp quốc. Ngày 24/10/1945, với sự phê chuẩn của Quốc
hội các nước thành viên, bản Hiến chương chính thức có hiệu lực.
2. Mục đích:

Hiến chương là văn kiện quan trọng nhất của Liên hợp quốc nêu rõ:
Mục đích của Liên hợp quốc là duy trì hoà bình, an ninh thế giới,
phát triển các quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế giữa các nước
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của
các dân tộc.
3. Nguyên tắc hoạt động:
– Tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
– Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các
nước.
– Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào.
– Giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.
– Chung sống hoà bình và sự nhất trí giữa năm nước lớn (Liên Xô, Mĩ,
Anh, Pháp và Trung Quốc)
4. Các cơ quan của Liên hợp quốc
Hiến chương còn quy định bộ máy tổ chức của Liên hợp quốc gồm 6
cơ quan chính như: Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Ban thư kí, Hội
đồng kinh tế xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế.
5. Vai trò của Liên hợp quốc
– Là diễn đàn quốc tế vừa hợp tác và đấu tranh nhằm duy trì hoà
bình và an ninh thế giới.
– Có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vụ tranh chấp và xung
đột ở nhiều khu vực, nhiều quốc gia, tiến hành giải trừ quân bị, hạn
chế chạy đua vũ trang, nhất là các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt; có
nhiều cố gắng trong việc giải trừ chủ nghĩa thực dân.
– Thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế, giúp đỡ các dân tộc
về kinh tế, văn hoá, giáo dục… Liên hợp quốc còn có nhiều chương
trình hỗ trợ, giúp đỡ các dân tộc kém phát triển, các nước đang phát
triển về kinh tế, văn hoá, giáo dục, nhân đạo…
– Tuy nhiên, bên cạnh đó, Liên hợp quốc cũng có những hạn chế,
không thành công trong việc giải quyết xung đột kéo dài ở Trung
Đông, không ngăn ngừa được việc Mĩ gây chiến tranh ở I-rắc…
– Để thực hiện tốt vai trò của mình, Liên hợp quốc đang tiến hành
nhiều cải cách quan trọng, trong đó có quá trình cải tổ và dân chủ
hoá cơ cấu của tổ chức này.
– Đến năm 2006, Liên hợp quốc có 192 quốc gia thành viên. Từ
tháng 9/1977, Việt Nam là thành viên 149 của Liên hợp quốc.
III. Sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập* ( giảm tải )

Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới diễn ra nhiều sự
kiện quan trọng với xu hướng hình thành hai phe: tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa – đối lập gay gắt với nhau về chính trị và kinh tế.
– Về chính trị:




Mĩ, Anh và Pháp tiến hành hợp nhất các khu vực chiếm đóng của
mình; thành lập Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức (9/1949).
Tháng 10/1949, với sự giúp đỡ của Liên Xô, Nhà nước Cộng hoà
Dân chủ Đức ra đời. Trên lãnh thổ nước Đức hình thành hai nhà
nước với hai chế độ chính trị khác nhau.
Trong những năm 1945 – 1947, các nước Đông Âu tiến hành
nhiều việc quan trọng như: xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ
nhân dân, cải cách ruộng đất, ban hành các quyền tự do dân
chủ v.v..

– Về kinh tế:




Sau chiến tranh, Mĩ đề ra “Kế hoạch phục hưng châu Âu” (còn
gọi là “Kế hoạch Mácsan”), nhằm viện trợ các nước Tây Âu khôi
phục kinh tế, đồng thời tăng cường sự chi phối của Mĩ đối với các
nước này. Nhờ đó, nền kinh tế các nước Tây Âu phục hồi nhanh
chóng.
Chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành hệ
thống thế giới. Năm 1949, Hội đồng tuơng trợ kinh tế được thành
lập. Thông qua đó, sự hợp tác về chính trị, kinh tế, mối quan hệ
giữa Liên Xô với các nước Đông Âu ngày càng được củng cố,
tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, ở châu Âu xuất hiện sự đối lập về chính trị và kinh
tế giữa hai khối: Tây Âu tư bản chủ nghĩa và Đông Âu xã hội
chủ nghĩa.

Chương II: LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU
( 1945 – 1991)
LIÊN BANG NGA ( 1991 – 2000)
A. Mục tiêu ôn tập
– Trình bày được tình hình Liên Xô từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai
đến giữa những năm 70 (thế kỉ XX).
– Trình bày và phân tích được ý nghĩa những thành tựu của Liên Xô
trong khôi phục kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội.

– Tóm tắt được sự ra đời của các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu
và những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
các nước này từ năm 1945 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ
XX.
– Trình bày được những nét cơ bản trong mối quan hệ giữa các nước
xã hội chủ nghĩa về kinh tế, văn hoá, khoa học – kĩ thuật, chính trị –
quân sự.
B. Nội dung ôn tập
I. Liên Xô từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX
1. Hoàn cảnh
– Liên Xô ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai với tư thế của
người chiến thắng, nhưng cũng bị tổn thất nặng nề (khoảng 27 triệu
người chết, 1.710 thành phố bị phá huỷ, 7 vạn làng mạc, 32.000 xí
nghiệp bị phá huỷ).
– Các nước phương Tây do Mĩ cầm đầu theo đuổi chính sách chống
Liên Xô. Liên Xô phải chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh.
– Liên Xô có trách nhiệm gúp đỡ các nước Đông Âu khôi phục kinh
tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội; giúp đỡ phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới.
2. Thành tựu chủ yếu
– Với tinh thần tự lực tự cường, nhân dân Liên Xô đã hoàn thành kế
hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1946 – 1950) trước thời hạn 9 tháng.
Đến năm 1950, sản lượng công nghiệp tăng 73%, sản lượng nông
nghiệp đạt mức trước chiến tranh. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành
công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mĩ.
– Liên Xô từ năm 1950 đến đầu những năm 1970: đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc
hoàn thành các kế hoạch kinh tế – xã hội dài hạn






Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới
(sau Mĩ), chiếm khoảng 20% tổng sản lượng công nghiệp toàn
thế giới; đi đầu trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng.
Liên Xô cũng thu được nhiều thành tựu trong sản xuất nông
nghiệp, sản lượng nông phẩm trong những năm 60 (thế kỉ XX)
tăng trung bình 16%/năm.
Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo
(1957), phóng tàu vũ trụ Phương Đông đưa nhà du hành vũ trụ
I.Gagarin bay vòng quanh Trái Đất (1961), mở đầu kỉ nguyên
chinh phục vũ trụ của loài người. Liên Xô chiếm lĩnh nhiều đỉnh
cao của khoa học – kĩ thuật thế giới: vật lí, hoá học, điện tử, điều
khiển học, khoa học vũ trụ…

– Về đối ngoại, Liên Xô thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và
tích cực ủng hộ phong trào cách mạng thế giới; đấu tranh cho hoà
bình, an ninh thế giới, kiên quyết chống chính sách gây chiến của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; tích cực giúp đỡ các
nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước; ủng hộ
các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
3. Ý nghĩa
– Trên cơ sở những thành tựu về kinh tế, khoa học – kĩ thuật, quân
sự, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Xô – viết không
ngừng được cải thiện, Liên Xô có vị trí quan trọng trong việc giải
quyết những công việc quốc tế.
– Liên Xô đạt thế cân bằng sức mạnh quân sự nói chung và sức
mạnh hạt nhân nói riêng với Mĩ và phương Tây; trở thành đối trọng
của Mĩ trong trật tự thế giới hai cực, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu
của Mĩ.
– Liên Xô có điều kiện giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ
phong trào giải phóng dân tộc Á – Phi – Mĩ Latinh về vật chất và tinh
thần trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Liên Xô là
thành trì của cách mạng thế giới, trụ cột của hoà bình thế giới.
II. Các nước Đông Âu từ 1945 đến nửa đầu những năm 70 của
thế kì XX ( đọc thêm)
– Trong những năm 1944 – 1945, cùng với quá trình Hổng quân Liên
Xô truy kích quân đội phát xít Đức, nhân dân Đông Âu đã nổi dậy
giành chính quyền, thành lập các nhà nước dân chủ nhân dân.
– Từ năm 1945 – 1949, các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu
hoàn thành một số nhiệm vụ quan trọng:
Xây dựng bộ máy nhà nước mới, tiến hành cải cách ruộng đất,
quốc hữu hoá tài sản của tư bản nước ngoài, ban hành các
quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân.
 Chính quyền nhân dân được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản ngày càng được khẳng định.
– Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội


Trong những năm 1950 – 1975, các nước Đông Âu đã thực hiện
nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
 Từ chỗ là những nước nghèo, các nước Đông Âu đã trở thành
những quốc gia công – nông nghiệp. Sản lượng công nghiệp tăng
lên gấp hàng chục lần, nông nghiệp phát triển nhanh chóng,
trình độ khoa học – kĩ thuật được nâng lên rõ rệt.
– Ý nghĩa:


Làm biến đổi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các nước,
khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
 Làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới với
tiềm lực mọi mặt được tăng cường và có vị thế quan trọng trong
quan hệ quốc tế.
III. Quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu
( đọc thêm )
1. Quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học – kĩ thuật:
– Ngày 8/1/1949, các nước Liên Xô, Ba Lan, Anbani, Bungary,
Hungary, Rumani, Tiệp khắc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV), Liên Xô giữ vai trò quyêt định trong khối này. Năm 1950 thêm
Cộng hoà dân chủ Đức, 1978 Việt Nam tham gia khối này.


– Mục tiêu: tăng cường hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, thúc
đẩy sự tiến bộ khoa học kĩ thuật, thu hẹp sự chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các nước thành viên.
– Thành tựu: Sau hơn 20 năm hoạt động, đến nửa đầu những năm
70, tốc độ sản xuất công nghiệp các nước trong khối SEV đã tăng
10%, sản xuất đạt 33% thế giới.
– Hạn chế: khép kín, không hoà nhập với đời sống kinh tế thế giới;
chưa coi trọng đầy đủ việc áp dụng những tiến bộ của khoa học và
công nghệ; sự hợp tác gặp nhiều trở ngại do cơ chế quan liêu, bao
cấp.
– Do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ngày
28/6/1991, khối SEV ngừng hoạt động.
– Ý nghĩa:
Thông qua việc hợp tác, tạo cơ sở vật chất – kĩ thuật đẩy mạnh
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân của các nước thành viên.
 Củng cố và tăng cường sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa,
ngăn chặn, đẩy lùi các âm mưu chống phá của chủ nghĩa tư bản,
không ngừng giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới và góp
phần giữ gìn hoà bình, an ninh thế giới.
2. Quan hệ chính trị – quân sự
– Ngày 14/5/1955, tại cuộc họp ở Vácsava, các nước Anbani, Balan,
Bungary, Cộng hoà dân chủ Đức, Hungary, Liên Xô, Rumani và Tiệp
khắc kí hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ, đánh dấu sự ra đời
của Tổ chức Hiệp ước Vacsava, một liên minh chính trị – quân sự
mang tính chất phòng thủ.


– Mục tiêu: chống lại âm mưu của Mĩ và phương Tây muốn tiêu diệt
phe xã hội chủ nghĩa.
– Ý nghĩa: có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hoà bình và an
ninh ở châu Âu và thế giới, tạo nên thế cân bằng về quân sự giữa

các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trở thành một đối
trọng với NATO.
IV. Liên bang Nga trong thời gian 1991 – 2000
– Từ sau năm 1991, Liên bang Nga là “quốc gia kế tục Liên Xô”, kế
thừa địa vị pháp lí của Liên Xô tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
cũng như các cơ quan ngoại giao của Liên Xô ở nước ngoài.
– Trong thập kỉ 90, dưới chính quyền Tổng thống Enxin, tình hình
Liên bang Nga chìm đắm trong khó khăn và khủng hoảng.
– Về kinh tế:
Trước năm 1996: Việc tư nhân hoá đã làm cho nền kinh tế Nga
trở nên rối loạn. Sản xuất công nghiệp năm 1992 giảm xuống
còn 20%. Từ năm 1990 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng GDP
luôn là số âm.
 Từ năm 1996, nền kinh tế Nga dần dần phục hồi, năm 1997 đạt
tăng trưởng kinh tế 0,5%, năm 2000 là 9%.
– Về chính trị:


Hiến pháp 1993, quy định Liên bang Nga theo chế độ Tổng
thống Liên bang.
 Từ năm 1992 – 1999, Tổng thống Enxin, nước Nga đứng trước
hai thử thách lớn. Một là tình trạng không ổn định về chính trị,
tranh chấp giữa các đảng phái. Hai là những cuộc xung đột sắc
tộc (Trecxia…).
 Từ năm 2000, V.Putin làm Tổng thống , nhà nước pháp quyền
được củng cố, tình hình xã hội ổn định; nhưng vẫn đứng trước
thử thách lớn: xu hướng li khai và nạn khủng bố…
– Về đối ngoại:


Trong những năm 1992 – 1993, nước Nga theo đuổi chính sách
“định hướng Đại Tây Dương” – ngả về phương Tây, hi vọng nhận
sự ủng hộ về chính trị và viện trợ về kinh tế. Nhưng sau 2 năm,
nước Nga đã không đạt kết quả như mong muốn.
 Từ năm 1994, nước Nga chuyển sang chính sách đối ngoại “định
hướng Âu – Á”, trong khi tranh thủ phương Tây, vẫn khôi phục
và phát triển mối quan hệ với châu Á (một số nước trong SNG,
Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN).
– Từ năm 2000, chính quyền của Tổng thống V.Putin đã đưa Liên
bang Nga dần thoát khỏi khó khăn và khủng hoảng, kinh tế hồi phục
và phát triển; chính trị, xã hội ổn định và địa vị quốc tế được nâng
cao để trở lại vị thế một cường quốc Âu – Á.


Chương III: CÁC NƯỚC Á, PHI VÀ MỸ LA TINH
A. Mục tiêu:

– Trình bày được những biến đổi quan trọng ở khu vực Đông Bắc Á từ
năm 1945 đến năm 2000; diễn biến cuộc nội chiến ở Trung Quốc
(1946-1949) và sự thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa;
những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội (1949 – 1959), công
cuộc cải cách mở cửa (1978 – 2000) và chính sách đối ngoại của
Trung Quốc.
– Khái quát được những biến đổi to lớn của khu vực Đông Nam Á từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000: cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc thắng lợi, sự phát triển kinh tế, sự hợp tác khu vực.
– Trình bày được diễn biến phong trào đấu tranh giành độc lập của
nhân dân Ấn Độ (1945 – 1950). Nêu được những thành tựu trong
công cuộc xây dựng đất nước (1950 – 2000) và đánh giá được vị thế
của Ấn Độ trên trường quốc tế.
– Tóm tắt được các giai đoạn phát triển của phong trào đấu tranh
giành độc lập ở châu Phi và khu vực Mĩ Latinh.
– Phân tích được ảnh hưởng của phong trào giải phóng dân tộc đối
với bản đồ chính trị thế giới.
– Giải thích được các khái niệm: cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, cải cách mở cửa, liên kết chính trị – kinh tế.
B. Nội dung:
I. Khu vực Đông Bắc Á
1. Những nét chung
– Là khu vực rộng lớn, đông dân. Trước chiến tranh thế giới II, hầu
hết khu vực này là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
– Từ sau chiến tranh thế giới II, ngày càng biến đổi sâu sắc:






Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa ra đời (1-10-1949). Tuy nhiên, một số vùng đất vẫn là
thuộc địa của Anh, Bồ Đào Nha, phải đến cuối những năm 1990
mới được trả về Trung Quốc: Hồng Kông (1997), Ma Cao (1999).
Bán đảo Triều Tiên bị chia cắt, hình thành hai quốc gia. Trong
những năm 50 và 60 (thế ki XX), hai nhà nước ở trong tình trạng
căng thẳng, đối đầu. Từ những năm 70, đặc biệt từ năm 1990
hai bên chuyển dần sang hoà dịu, đối thoại.
Từ những nước nghèo nàn, lạc hậu, hoặc bị chiến tranh tàn phá,
khu vực này có sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế. Hàn
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông được đánh giá là những con rồng
kinh tế.

Nhật Bản từ chỗ suy kiệt do chiến tranh, từ năm 1952 đến năm
1973 phát triển thành một nước có nền kinh tế lớn thứ hai trên
thế giới.
 Từ những năm 80 của thế kỉ XX, nền kinh tế Trung Quốc có tốc
độ tăng trưởng nhanh và cao nhất thế giới. Đến cuối thế kỉ XX,
Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới.
2. Trung Quốc
a. Sự thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ( giảm tải)
– Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Trung Quốc có ảnh hưởng của
cả hai phe. Trung Hoa Quốc dân đảng dựa vào sự giúp đỡ của Mĩ.
Lực lượng cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo dựa
vào sự giúp đỡ của Liên Xô.


20/7/1946, Trung hoa Quốc dân đảng phát động nội chiến chống
Đảng Cộng sản Trung Quốc.
 Trong năm đầu (từ tháng 7/1946 đến tháng 6/1947), lực lượng
cách mạng thực hiện chiến lược phòng ngự tích cực, không ham
giữ đất, chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng đối phương.
 Từ giữa năm 1947, Quân Giải phóng Trung Quốc chuyển sang
phản công, lần lượt giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Tháng 41949, tiến vào giải phóng Nam Kinh.
 Tháng 9-1949 cuộc nội chiến kết thúc, toàn bộ lục địa Trung
Quốc được giải phóng. Lực lượng Quốc dân đảng chạy ra Đài
Loan.
 Ngày 1/10/1049, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được
thành lập.
– Cuộc cách mạng này có tính chất là cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ.


– Ý nghĩa:
– Đối với Trung Quốc:
Đánh dấu cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc đã hoàn
thành; chấm dứt hơn 100 năm nô dịch và thống trị của đế quốc,
xoá bỏ chế độ phong kiến, quân phiệt, đưa nước Trung Hoa vào
kỉ nguyên độc lập tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
– Đối với thế giới:


Làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa được mở rộng, nối liền từ Âu
sang Á.
 Có ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới, trước hết là các nước trong khu vực.
b. Thành tựu 10 năm đầu xây dựng chế độ mới (1949 – 1959) ( giảm
tải)
– Cuối năm 1952, Trung Quốc thực hiện thắng lợi công cuộc khôi
phục kinh tế (1950 – 1952).


– Từ năm 1953, thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên (1953 – 1957),
tiến hành những cải cách quan trọng: cải cách ruộng đất và hợp tác
hoá nông nghiệp, cải tạo công – thương nghiệp tư bản tư doanh; tiến
hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Bộ mặt đất nước có những
thay đổi rõ rệt: đến năm 1957 có 246 công trình được xây dựng, sản
lượng công nghiệp tăng 140%, nông nghiệp tăng 25% (so với năm
1952). Văn hoá, giáo dục có những bước tiến lớn.
– Về đối ngoại, Trung Quốc thi hành chính sách củng cố hoà bình và
thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới; địa vị quốc tế ngày càng
được nâng cao. Ngày 18/1/1950, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam.
c. Công cuộc cải cách – mở cửa (1978 – 2000)
– Tháng 12/1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra
đường lối cải cách kinh tế – xã hội, do Đặng Tiểu Bình khởi xướng;
được nâng lên thành đường lối chung từ Đại hội XII (1982) và Đại hội
XIII (1987) của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
– Nội dung căn bản của đường lối cải cách: lấy phát triển kinh tế làm
trung tâm; kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản (con đường xã hội chủ
nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Mao Trạch
Đông); tiến hành cải cách và mở cửa, chuyển sang nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa; tiến hành bốn hiện đại hoá nhằm mục tiêu
biến Trung Quốc thành quốc gia giàu mạnh, dân chủ và văn minh.
– Thành tựu:
GDP tăng trung bình hằng năm 8%; năm 2000, GDP đạt 1080 tỉ
USD, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
 Về khoa học – kĩ thuật: tháng 10/2003, phóng thành công con
tàu “Thần Châu 5” đưa nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ bay vào
vũ trụ, trở thành nước thứ ba trên thế giới có tàu và người bay
vào vũ trụ.
 Về đối ngoại: cải thiện quan hệ với các nước: thiết lập quan hệ
ngoại giao với Mĩ (1979); từ những năm 80 (thế kỉ XX), bình
thường hoá quan hệ với Liên Xô, Việt Nam; địa vị quốc tế không
ngừng được nâng cao.
 Trung Quốc thu hồi chủ quyền đối với Hồng Công (7-1997) và
Ma Cao (12-1999).
II. Các nước Đông Nam Á
1. Cuộc đấu tranh giành độc lập ở khu vực Đông Nam Á
– Đông Nam Á là khu vực rộng 4,5 triệu km2, gồm 11 quốc gia, dân
số 528 triệu người (năm 2000).


– Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước trong khu vực (trừ Thái
Lan) đều là thuộc địa của các đế quốc Âu, Mĩ.

– Khi chiến tranh bùng nổ, Nhật Bản xâm chiếm cả vùng Đông Nam
Á. Từ cuộc đấu tranh chống thực dân Âu, Mĩ, nhân dân Đông Nam Á
chuyển sang cuộc đấu tranh chống quân phiệt Nhật Bản, giải phóng
đất nước. Tận dụng thời cơ Nhật Bản đầu hàng đồng minh (8/1945),
nhân dân nhiều nước đứng lên giành độc lập hoặc giải phóng phần
lớn lãnh thổ khỏi ách chiếm đóng của quân Nhật.
Ngày 17/8/1945, Inđônêxia tuyên bố độc lập và thành lập nước
Cộng hoà Inđônêxia.
 Ở Việt Nam, cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, dẫn tới sự
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (2/9/1945).
 Tháng 8/1945, nhân dân các bộ tộc Lào nổi dậy khởi nghĩa giành
chính quyền. Ngày 12/10/1945 nước Lào tuyên bố độc lập.
 Nhân dân các nước Miến Điện, Mã Lai và Philippin đều nổi dậy
đấu tranh chống quân phiệt Nhật Bản, giải phóng nhiều vùng
rộng lớn.
– Ngay sau đó, các nước thực dân Âu, Mĩ quay trở lại xâm lược Đông
Nam Á. Nhân dân các nước Đông Nam Á lại phải tiếp tục cuộc đấu
tranh chống xâm lược.


– Giữa những năm 50 (thế kỉ XX), nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia đã giành thắng lợi trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, rồi tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ,
đến năm 1975 giành thắng lợi hoàn toàn.
– Các nước thực dân Âu, Mĩ cũng lần lượt công nhận nền độc lập của
Philippin (7-1946), Miến Điện (1-1948), Inđônêsia (8-1950), Malaisia
(8-1957), Singapore giành quyền tự trị (1959), Brunây (1984). Đông
Timo trở thành một quốc gia độc lập (5-2002).
2. Lào
– Sự ra đời nước Lào độc lập: Lợi dụng thời cơ tháng 8/1945, Nhật
đầu hàng Đồng minh, từ ngày 23/8/1945 nhân dân Lào nổi dậy giành
chính quyền. Ngày 12/10/1945, nhân dân Thủ đô Viêng chăn khởi
nghĩa thắng lợi, Chính phủ dân tộc Lào ra mắt quốc dân và tuyên bố
nền độc lập của Lào.
– Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954):





Tháng 3/1946, thực dân Pháp trở lại xâm lược Lào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ
của Việt Nam, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào ngày càng
phát triển. Các chiến khu được thành lập ở Tây Lào, Thượng Lào
và Đông Bắc Lào. Quân giải phóng Lào và Chính phủ kháng
chiến Lào được thành lập.
Trong những năm 1953 – 1954, quân dân Lào phối hợp cùng
quân tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch Trung Lào, Hạ
Lào, Thượng Lào…, giành thắng lợi to lớn.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được kí kết
(7/1954), công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Lào, thừa nhận địa vị hợp pháp của lực lượng kháng chiến Lào
với một vùng giải phóng ở Sầm Nưa và Phongxalì.
– Kháng chiến chống Mĩ (1954-1975):


Sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được kí kết, Mĩ
thay chân Pháp, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới.
 Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào, cuộc đấu
tranh chống Mĩ được triển khai trên ba mặt trận (quân sự, chính
trị, ngoại giao), làm thất bại các cuộc tiến công của Mĩ và tay
sai.
 Đến đầu những năm 60 (thế kỉ XX), quân dân Lào đã giải phóng
2/3 lãnh thổ, từng bước đánh bại Chiến tranh đặc biệt và Chiến
tranh đặc biệt tăng cường của Mĩ.
 Tháng 2/1973, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hoà bình và thực
hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết. Chính phủ Liên hiệp dân
tộc lâm thời và Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp được thành
lập.
 Từ tháng 5 đến tháng 12/1975, nhân dân Lào nổi dậy giành
chính quyền trong cả nước.
 Ngày 2/12/1975 nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào chính
thức được thành lập. Từ đây, nhân dân Lào bước vào công cuộc
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã
hội.
3. Campuchia
– Chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc (1945-1954):


Tháng 10/1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược Campuchia, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1951 là
Đảng nhân dân Cách mạng Campuchia), nhân dân Campuchia
đứng lên kháng chiến. Lực lượng kháng chiến ngày càng trưởng
thành.
 Ngày 9/11/1953, do cuộc vận động ngoại giao đòi độc lập của
Xihanuc, Pháp kí hiệp ước “trao trả độc lập cho Campuchia”. Tuy
vậy, quân đội Pháp vẫn chiếm đóng Campuchia.
 Sau thất bại ở Điện Biên Phủ (1954), thực dân Pháp phải kí Hiệp
định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và
Việt Nam.
– Giai đoạn 1954 – 1970: Chính phủ Xihanuc thực hiện chính sách
hoà bình, trung lập, không tham gia bất cứ khối liên minh quân sự
hoặc chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi phía không có điều kiện
ràng buộc.


– Kháng chiến chống Mĩ (1970-1975):

Chính phủ Xihanuc bị thế lực tay sai của Mĩ lật đổ (18/3/1970).
Từ đây nhân dân Campuchia cùng nhân dân Việt Nam, Lào tiến
hành kháng chiến chống Mĩ.
 Từ tháng 9/1973, lực lượng vũ trang Campuchia liên tục tiến
công, bao vây thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố lớn khác.
 Mùa xuân năm 1975, quân dân Campuchia mở cuộc tiến công
vào sào huyệt cuối cùng của địch, giải phóng thủ đô Phnôm
Pênh (17/4/1975), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến.
– Cuộc đấu tranh lật đổ tập đoàn Khơme đỏ (1975-1979):


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cách mạng
Campuchia bị phản bội. Tập đoàn Pôn-pốt thi hành chính sách
diệt chủng.
 Nhân dân Campuchia lại phải tiến hành cuộc đấu tranh chống
chế độ diệt chủng. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc cứu
nước Campuchia (thành lập ngày 3 /12/1978), với sự giúp đỡ của
Việt Nam, quân và dân Campuchia nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày
7/1/1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng. Nhân dân
Campuchia bước vào thời kì xây dựng lại đất nước.
– Nội chiến và tái lập vương quốc (1979-1993):


Từ năm 1979 cuộc nội chiến diễn ra giữa lực lượng của Đảng
nhân dân với phe phái đối lập, chủ yếu với Khơme đỏ.
 Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết
tại Pari. Sau cuộc Tổng tuyển cử tháng 9/1993, Quốc hội
Campuchia thông qua Hiến pháp, tuyên bố thành lập Vương
quốc Campuchia do Xihanuc làm quốc vương. Đất nước
Campuchia bước vào một thời kì mới.
( nhóm các nước đông dương và các nước khác ở Đông Nam Á được
giảm tải)
4. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước của nhóm 5
nước sáng lập ASEAN(Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaisia,
Philippin)
– Sau khi giành độc lập (những năm 50 và 60 của thế kỉ XX) các
nước này tiến hành công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược
kinh tế hướng nội) nhằm nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,
phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa,
xây dựng nền kinh tế tự chủ; đạt được những thành tựu to lớn. Tuy
nhiên, chiến lược này dần bộc lộ những hạn chế (thiếu nguồn vốn,
nguyên liệu và công nghệ; tệ tham nhũng, quan liêu phát triển; chưa
giải quyết được quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng xã hội).


– Từ những năm 60 – 70 trở đi, các nước này chuyển sang chiến lược
công nghiệp hoá lấy xuất khẩu làm chủ đạo (chiến lược kinh tế
hướng ngoại), tiến hành mở cửa để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật
của nước ngoài, tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu, phát triển
ngoại thương. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Tỉ trọng

công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân lớn hơn nông nghiệp, mậu
dịch đối ngoại tăng trưởng nhanh. Singapore trở thành “con rồng”
nổi trội nhất trong bốn “con rồng” ở châu Á. Mặc dù vậy, chiến lược
kinh tế hướng ngoại cũng có hạn chế (phụ thuộc nhiều vào nguồn
vốn và thị trường bên ngoài, đầu tư không hợp lí).
5. Sự ra đời và phát triển của tổ chức ASEAN
a. Sự ra đời của tổ chức ASEAN
– Sau hơn 20 năm đấu tranh giành và bảo vệ độc lập, các nước trong
khu vực bước vào thời kì ổn định và phát triển kinh tế, nhiều nước có
nhu cầu hợp tác với nhau để cùng giải quyết khó khăn và phát triển.
– Trong bối cảnh Mĩ ngày càng sa lầy trên chiến trường Đông Dương,
các nước Đông Nam Á muốn liên kết lại, nhằm giảm bớt sức ép của
các nước lớn.
– Những tổ chức hợp tác mang tính khu vực trên thế giới xuất hiện
ngày càng nhiều, nhất là sự thành công của Khối thị trường chung
châu Âu (EEC) có tác dụng cổ vũ các nước Đông Nam Á.
– Ngày 8/8/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được
thành lập tại Băng Cốc với sự tham gia của Indonesia, Malaysia,
Philippin, Thái Lan và Singapore.
b. Quá trình phát triển
– Tuyên bố Băng Cốc (1967) nêu rõ mục tiêu của ASEAN là phát triển
kinh tế, văn hoá thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các
nước thành viên, trên tinh thần duy trì hoà bình và ổn định khu vực.
Tuyên bố Kualalămpua (1971) đưa ra đề nghị xây dựng Đông Nam Á
thành khu vực hoà bình, tự do, trung lập. Hiệp ước Bali (1976) xác
định mục tiêu xây dựng mối quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác
giữa các nước trong khu vực, tạo nên cộng đồng Đông Nam Á hùng
mạnh.
– Trong giai đoạn đầu (1967-1975), ASEAN là tổ chức non trẻ, quan
hệ hợp tác còn lỏng lẻo, chưa có vị thế quốc tế.
– Sự khởi sắc được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao Bali (2/1976): các
nước kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, xây dựng nguyên tắc cơ bản
trong quan hệ giữa các nước:
Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
 Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
 Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình.
 Hợp tác, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
– Hiệp ước Bali mở ra thời kì mới trong quan hệ giữa các nước thành
viên và giữa ASEAN với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Quan
hệ giữa các nước Đông Dương và ASEAN được cải thiện, thể hiện ở
việc thiết lập quan hệ ngoại giao và những chuyến viếng thăm của


các nhà lãnh đạo cấp cao. Từ đầu những năm 90, Chiến tranh lạnh
chấm dứt và “vấn đề Campuchia” được giải quyết, ASEAN có điều
kiện phát triển.
– Mở rộng thành viên ASEAN: Brunây (1984), Việt Nam (1995), Lào
và Mianma (1997), Campuchia (1999):
– Đẩy mạnh hoạt động hợp tác xây dựng một cộng đồng ASEAN về
kinh tế, an ninh và văn hoá: quyết định thành lập một khu vực mậu
dịch tự do (AFTA) (1992); lập diễn đàn khu vực (ARF) với sự tham gia
của 23 nước trong và ngoài khu vực (1993); chủ động đề xuất diễn
đàn hợp tác Á – Âu (ASEM); tích cực tham gia diễn đàn hợp tác kinh
tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); kí kết bản Hiến chương ASEAN
(2007) nhằm xây dựng một Cộng đồng ASEAN có vị thế cao hơn và
hiệu quả hơn.
– Trong quá trình phát triển và hội nhập, ASEAN đạt được nhiều
thành tựu to lớn, nền kinh tế các nước thành viên phát triển mạnh,
với tư cách là một tổ chức liên minh chính trị – kinh tế, ASEAN đẩy
mạnh hợp tác kinh tế, xây dựng thành khu vực hoà bình, ổn định và
phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế và ngày càng nâng cao địa vị
quốc tế của ASEAN.
III. Ấn Độ
1. Quá trình đấu tranh giành độc lập
– Phong trào đấu tranh giành độc lập (1945 – 1947):
Năm 1946, nổ ra 848 cuộc đấu tranh, tiêu biểu cuộc khởi nghĩa
ngày 19/2/1946 của 2 vạn thuỷ binh trên 20 chiến hạm ở cảng
Bombay. Ngày 22/2/1946, nổ ra cuộc bãi công, biểu tình của 20
vạn công nhân, học sinh, sinh viên Bombay. Sau đó phong trào
lan ra các tỉnh khác: Cancutta, Carasi, Mađrat… Ở nông thôn có
phong trào Têphaga, đòi chỉ nộp 1/3 thu hoạch cho địa chủ.
 Đầu năm 1947, cao trào bãi công của công nhân bùng nổ ở
nhiều thành phố lớn, tiêu biểu là cuộc bãi công của hơn 40 vạn
công nhân Cancútta.
– Kết quả:






Thực dân Anh nhận thấy không thể thống trị theo hình thức chủ
nghĩa thực dân như cũ được nữa, phải nhượng bộ, hứa trao
quyền tự trị cho Ấn Độ, rút khỏi Ấn Độ trước tháng 7/1948.
Để thực hiện cam kết này, Anh cử phó vương Maobattơn thương
lượng với Đảng Quốc đại và Liên đoàn Hồi giáo Ấn Độ, đề ra
phương án độc lập cho Ấn Độ. Theo đó, ngày 15/8/1948, Ấn Độ
tách thành hai quốc gia tự trị dựa trên cơ sở tôn giáo: Ấn Độ của
những người theo Ấn Độ giáo và Pakixtan của những người theo
Hồi giáo.