Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Bình giảng điểm sáng thẩm mĩ văn chương

e3aa3aba1aa910df6e619d59667c99e6
Gửi bởi: Thành Đạt 28 tháng 10 2020 lúc 13:29:37 | Được cập nhật: 23 tháng 4 lúc 16:33:29 Kiểu file: PDF | Lượt xem: 417 | Lượt Download: 2 | File size: 0.126927 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

TƯ LIỆU THAM KHẢO. BÌNH GIẢNG MỘT SỐ ĐIỂM SÁNG THẨM MĨ (TÍN HIỆU NGHỆ THUẬT) Giảng : Giới thiệu, phân tích, thuyết minh, giải thích, chú giải nhằm l àm cho người đọc hiểu nđược văn bản một cách toàn vẹn với những chỗ tinh tế, sâu sắc h àm ẩn, nắm bắt được lớp lang, mạch lạc của tác phẩm. Giảng là cơ sở để hiểu từ đó giúp cho việc b ình có sức thuyết phục. Bình: Đánh giá, nhận xét, khen chê với các giá trị của tác phẩm. Bình tứ thơ, hình tượng thơ tức là thế giới nghệ thuật của thơ, qua đó bình tài thơ và tâm hồn nhà thơ. Bình về nhân cách, phẩm chất, bản lĩnh nh à thơ trước cuộc đời. Bình về kĩ xảo, nghệ thuật của nh à thơ, sự am hiểu từ ngữ, thanh luật của tác giả (chữ nghĩa, nhạc điệu, nhịp điệu, h ình ảnh). Bình về ý nghĩa cách tân của nghệ thuật tác phẩ m (sáng tạo độc đáo), tính dân tộc, tính hiện đại. 1. Trường Sơn đông nắng tây mưa Ai chưa đến đó như chưa rõ mình Tầng nghiã 1: Trường Sơn của hành trình kiến tạo (nghĩa định danh). Tầng nghĩa 2: Trường Sơn trong trường hợp xác định, trong cấu tạo điều kiện kết quả là biểu hiện về tinh thần hi sinh gian khổ; l à biểu hiện con người lịch sử, biến lượng thành chất cho thơ. Dấu hiệu của nghệ thuật th ơ: (chưa đến/chưa rõ) có thể được sinh ra từ một hoặc những yếu tố đã biết : (đông nắng/tây mưa) dấu hiệu nghệ thuật thơ hàm chứa năng lượng thông tin thẩm mĩ, hướng tới phát hiện hoặc triển khai h ình tượng trên những bình diện mới. 2. Bây giờ mận mới hỏi đào: Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ? Mận hỏi thì đào xin thưa : Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. “Bây giờ” chứa đựng năng lượng thông tin thẩm mĩ. Cái chuyện hệ trọng ấy cớ sao phải đến bây giờ mà không phải là chuyện được hỏi từ nhiều khi về trước hoặc mai sau mới hỏi ? Năng lượng thông tin ở đây là tính thời điểm xác định, người ta có thể vượt qua những yếu tố tiền giả định (logic thông tin quan hệ : mận – đào - vườn hồng) mà chỉ chú ý đến tính thời điểm “ bây giờ” và “mới hỏi”, tức hàm ẩn một quá trình quan hệ. Chỉ “bây giờ” mới là thời điểm “hỏi” chứ không phải bất cứ một khi nào khác. 3. Anh dắt em vào cõi Bác xưa Đường dài hoa trắng nắng đu đưa Có hồ nước nặng soi tăm cá Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa. Cuộc sống thứ hai của văn bản nghệ thuật - lớp nghĩa văn cảnh – không phải do sự suy luận vô cớ, mà thường là lôgic đời sống hiện hình phía sau những con chữ tường 1 minh. Một chữ trong câu (hoặc trong b ài) sẽ rất quan trọng nếu nó là trung tâm mang nghĩa. Khung cảnh nơi Bác ở dường như vẫn thế, nhưng cả một chuỗi thông tin miêu tả không gian và sự vật : đường xoài, hồ nước, bưởi cam, … vốn rất đỗi quen thuộc dường như đã nhuốm một nguồn ánh sáng thi êng liêng kì lạ. Chỉ với sức gợi của một chữ “cõi”,tất cả cảnh vật nơi đây đã thuộc về một thế giới tôn kính, trang nghi êm của tột cùng xót xa, hoài niệm. Nếu thay “cõi” bằng “lối” chẳng hạn, đoạn thơ lập tức chuyển sang biểu hiện nghĩa trung tính hoặc không xác định. 4. KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ TRÊN LƯNG MẸ - NGUYỄN KHOA ĐIỀM Kết cấu bài thơ chia làm ba đoạn, mỗi đoạn đều được mở đầu bằng lời của tác gi ả và kết thúc bằng lời ru của mẹ. Đó l à bài ca về những em bé lớn lên theo quá trình mẹ tham gia kháng chiến. Đoạn 1, em bé lớn lên cùng gian lao kháng chiến, em lớn lên trong tình cảm thiêng liêng của mẹ với bộ đội, cách mạng: Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng Câu thứ 7 đột ngột chuyển ý: Lưng đưa nôi và tim hát thành l ời Mẹ thương A Kay mẹ thương bộ đội. Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. Đó là lời tâm tình, nhắn nhủ, lời ru của tác giả với Cu Tai l àm nền cho lời ru của mẹ tha thiết cất lên (tiếng lòng, ước mơ, khao khát tình yêu của mẹ -con, mẹ- cách mạng) Đoạn 2, mở đầu bằng lời tác giả, điệp hai câu đầu. H ình ảnh giấc ngủ được thể hiện trong mối quan hệ so sánh tượng trưng: Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng Mặt trời được hiểu như sức chiếu toả của bình minh, nguồn ánh sáng, ý nghĩa, niềm hi vọng của cuộc đời Lời mẹ ru: Mẹ thương A Kay , mẹ thương làng đói Trong lời ru của mẹ, vẫn cấu trúc lặp và da diết: Ngủ ngoan A Kay ơi, ngủ ngoan A Kay hỡi Tình cảm của mẹ với Cu tai thể hiện từ sự gắn bó với bộ đội, đến l àng đến đất nước. đặc biệt là Cu tai, từ ước mơ cụ thể phục vụ kháng chiến ( con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần ) đến ước mơ sinh tồn vĩnh cửu ( Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều ) và ước mơ theo xu hướng hoàn thiện lí tưởng của mẹ ( Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ). Cấu trúc tình cảm: Mẹ thương A Kay - mẹ thương làng đói - mẹ thương đất nước Con mơ…hạt gạo – con mơ…hạt bắp – con mơ…được gặp Bác Hồ. Ở đây có sự lặp lại khuôn hình để phát triển nội dung ý nghĩa, khẳng định t ình cảm. 5. TRE VIỆT NAM - NGUYỄN DUY 2 Cấu trúc thơ : Thân gầy guộc lá mong manh Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi Ở đâu tre cũng xanh tươi Cho dù đất sỏi, đá vôi bạc màu. Phát sinh những liên tưởng, so sánh đã phác hoạ sức mạnh đoàn kết, sự vun đắp chung giữa các cá thể độc lập. Đây l à hình tượng độc đáo về sức mạnh, bản sắc dân tộc: mỗi cây tre phải là một cơ thể sống kiên cường trong cái cộng đồng chung ấy. Rễ siêng không ngại đất nghèo Thân bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù Cấu trúc hô ứng xác lập quan hệ giữa số rễ - sự cần cù. Số rễ - sự cần cù được trừu tượng hoá đi, nhòe đi, ý nhiều hơn lời. Cần cù lao động làm trung tâm liên tưởng cho con người. Đó chính là đối tượng miêu tả trong thơ. 6. QUA ĐÈO NGANG – BÀ HUYỆN THANH QUAN Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom, dưới núi tiều vài chú, Lác đác, ven sông chợ mấy nhà. Đoạn thơ như bức tranh thuỷ mặc, giản dị như chính cảnh và người. Cảnh thú vị. Cái số nhiều của khung cảnh thiên nhiên: đá nhiều, cây nhiều, hoa nhiều là những cái nhiều cụ thể. Khi người đọc đang trong tâm trạng lâng lâng bởi cỏ cây… th ì bất ngờ cảm xúc bị lắng xuống bởi cái “v ài” về số lượng chú tiểu và cái “ mấy’’ về số lượng nhà nơi bến sông. Cảnh vật miêu tả vừa buồn mênh mông xa vắng vừa điểm xuyết cái đẹp hoang sơ của quá khứ. Điều đó được tạo ra bởi sức mạnh của ph ương thức tạo hình đối lập giữa “nhiều” và “ít”. 7. THU ĐIẾU - NGUYỄN KHUYẾN * Cách hiểu thứ nhất: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc cần câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng cao lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Bó gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Cảnh chiều thu được tác giả dùng phương thức tạo hình để vẽ lên. Tất cả đều rất thực. Một thiên nhiên thực, một ngõ trúc thực, một sóng nước gợn thực, và một tầng mây lơ lửng cũng là thực nốt…Năng lực tạo hình của cả bài thơ đã vượt qua cấu trúc của các câu mà ở đó mỗi câu là một lời chỉ dẫn cho một bức tranh tĩnh vật với những màu sắc bình dị, cụ thể . Bài thơ cực tả một cảnh tĩnh. Cái tĩnh đó trước hết thể hiện ở hệ thống ngôn từ: lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, l ơ lửng, quanh co, vắng ngắt. Đó là những từ láy hoặc 3 ghép sắc thái hoá. Tất cả đều chỉ các tính chất, đ ã đạt đến đỉnh điểm. Vì đã vút lên đến đỉnh điểm nên đọng lại ở đó, dừng lại, không vận động nữa. Nh à thơ lấy động để tả tĩnh “vẽ mây nẩy trăng”. để miêu tả cảnh tĩnh, mà cứ tĩnh mãi sẽ nhàm, cho nên phải đưa cái động vào. Bó gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Những cái “động” trong bài thơ có lấy gì làm mạnh mẽ? Chính nhờ sự chết lặng của không gian mà chúng ta mới nhận ra cái động không đáng gọi l à động đó. Có cái động thật : “gợn”. Còn “đớp” có xảy ra đâu, “cá đâu đớp động”…và phải lặng lẽ thế nào đó một tiếng lá bay mới nghe đ ược thành “vèo”. Vèo, nét bay của lá là nét động duy nhất của bài thơ. Bài thơ là bức tranh tuyệt tác về sự vắng lặng của m ùa thu. Sự chết lặng của cảnh thu chính l à tâm trạng của Nguyễn Khuyến v à của cả lớp người như Nguyễn Khuyến. (Sự thống nhất về ngữ nghĩa giữa các từ có thể gọi l à sự cộng hưởng ngữ nghĩa. Cũng như sự cộng hưởng âm thanh, ý nghĩa của các từ h ài hoà với nhau, tôn nhau lên, tạo ra những dao động ngữ nghĩa. Dao động n ày sẽ dội vào tâm tình người đọc, để lại trong đó những dấu ấn sâu đậm). * Cách hiểu thứ hai: “ Cá đâu đớp động dưới chân bèo” có thể được hiểu là cá không cắn câu mà lại “đớp động” dưới chân bèo, trêu ngươi mới tức chứ! Vừa bực mình, vừa buồn cười. Bởi thế, có cá mà vẫn than thở, có tiếng cá mà vẫn chẳng “ loãng đi nỗi cô đơn và nỗi đau”. Cảnh rất thực, khơi được đồng cảm nơi người đọc. Bài thơ kết thúc bằng cái giỡn đùa đầy kịch tính của tạo hoá. Cảnh oái oăm đã tạo nên nụ cười kín đáo, đôn hậu (phong cách Nguyễn Khuyến). Vui là vui gượng kẻo là…Nụ cười này được tạo ra một cách có ý thức, l àm vơi nỗi niềm bất đắc dĩ và bất đắc ý của thú vui nhàn tản. Câu cá thường than không câu được cá, cá không chịu cắn câu, sao lại than cá không đớp động, mà lại phải là “đớp động dưới chân bèo”? Cá không cắn câu nhưng nếu đớp động dưới chân bèo thì thôi không than thở chăng? ! Hay là ông câu chỉ quan tâm tới chốn chân b èo mà không là chỗ khác, để rồi cá không đ ớp ở đó thì buồn? Có ai buồn kiểu đó không? Hay l à Nguyễn Khuyến câu cá bằng b èo, cá không đớp bèo thì ông buồn chăng? Dù chủ ý thế nào thì câu thơ ra đời và vào cuộc sống, chịu sự chi phối của logic cuộc sống, nó có đời sống ri êng của nó, người đọc tất hiểu được nó. Nếu “đâu” ở đây là “đâu đó” thì câu thơ thêm được cả sự, cả tình, cả hình, cả tiếng. Hồn thơ thanh cao, tứ thơ dồn nén năng lượng . Bức tranh thu không tĩnh lặng tuyệt đối. Tiếng cá đớp động, sóng gợn lăn tăn, lá v àng đưa vèo trước gió cho thấy điều đó. Cảnh có động, nhưng động rất nhỏ, rất gọn; động vừa đủ để góp vào cái phơn phớt sắc buồn của cảnh vật; động vừa đủ để ngân nga vẻ đẹp tuyệt vời và thanh bình của quê hương đất nước; động để bức tranh thu không chết, để bức tranh quê hương sống mãi trong lòng bạn đọc. Cá chỉ đớp động dưới chân bèo, kéo nhà thơ trở về thực tại. Dường như cách kết thúc này ẩn chứa một nỗi sầu mang mang cô đ ơn, gần như vô vọng của nhà thơ trước thực tại. Lời thơ đã kết mà ý thơ vẫn tuôn làm lộ ra bầu tâm tư thầm kín. Ta bất chợt bắt gặp nỗi đau đời của cụ Tam nguy ên ở nơi tận cùng chữ nghĩa bài thơ. 4 8. BỨC TRANH - NGUYỄN MINH CHÂU Tình huống truyện được đặt ra để nhân vật tự bộc lộ tính cách. Nhân vật “tôi” (hoạ sĩ) được tác giả đặt vào các mối quan hệ của hoàn cảnh “không ngờ”, hết sức khó xử đến mức trớ tr êu. Lần thứ nhất: Vừa lạnh lùng từ chối vẽ bức chân dung anh chiến sĩ của một trạm giao lên trưa hôm trước thì sáng hôm sau lại chính anh chiến sĩ đó đến nhận nhiệm vụ thồ tranh cho mình vựt qua một chặng đường nguy hiểm. Lần thứ hai: Từ chiến trường ra, sau khi tham dự triển l ãm và trở thành người nổi tiếng đã quên khuấy lời hứa đem bức tranh đến trao tận tay ng ười mẹ của anh chiến sĩ thì bất ngờ gặp lại người chiến sĩ: chính là người đang cắt tóc cho mình. Hai tình huống ấy là điều kiện tương ứng với hai lần nhân vật “tôi” thức tỉnh. Lần thứ nhất là can đảm xin lỗi. Lần thứ hai là cật vấn lương tâm, tự phán xét mình. 9. LƯỢM -TỐ HỮU Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng. Cảm phục và đau xót, thương tiếc trước sự hi sinh của Lượm, nhà thơ như thấy hồn thiêng của Lượm đang quấn quyện cùng sông núi, hoá thân vào sức sống xanh tươi của thiên nhiên và đồng lúa quê hương. Hình ảnh “Lúa thơm mùi sữa, hồn bay giữa đồng” là một hình ảnh vừa tả thực vừa ẩn dụ t ượng trưng về ý nghĩa cao đẹp của sự hi sinh giữa độ xuân xanh của cuộc đời đang có nhiều hứa hẹn. 10. ĐỢI - VŨ QUẦN PHƯƠNG Anh đứng trên cầu đợi em Anh đứng một ngày đất lạ thành quen Đứng một đời em quen thành lạ. Chọn chiếc cầu làm nơi chờ đợi là một dụng ý, bởi ở đó có thể thấy r õ nhất về sự trôi chảy, đổi thay. Nơi đứng đợi (một ngày) từ lạ thành quen, còn người anh đợi (một đời) đã quen thành lạ. Từ sự chuyển hoá về lượng (thời gian) dẫn đến sự chuyển hoá về chất ( lạ - quen, quen - lạ ). Sự việc tưởng như phi lí mà lại có lí! (Đọc văn chính là đọc cho sáng rõ từng ý nghĩa, tình cảm, thái độ, tâm trạng mà nhà văn định gửi gắm cho người đọc. Đọc là tìm cho ra sự phát hiện mới mẻ độc đáo của nhà thơ). 11. Uớc gì ta đước là sông Để ra đến biển là không còn mình (Lâm Thị Mĩ Dạ) Theo quy luật sông chảy ra biển là sự hoà nhập giữa hữu hạn và vô cùng . Câu thơ Lâm Thị Mĩ Dạ rõ ràng có dấu hiệu của sự “vượt ngưỡng’’, thăng hoa cảm xúc, hàm chứa nhận thức mới mẻ, sáng tạo “rất thơ”. 12. Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. 5 Sự có mặt của một chữ có thể l àm cho phát ngôn vượt qua những nét nghĩa cơ sở để xác định đời sống tâm lí, xác định số phận ri êng. Vì thế việc xác nhận đối tượng thẩm mĩ để tiếp nhận luôn luôn l à một thử thách. Truyện Kiều mở đầu câu chuyện trao duy ên bằng tình huống và những lời lẽ “đột biến” so với quy ước thông thường của lễ giáo phong kiến. Các từ “cậy”, “chịu ”, ngồi lên”, “lạy” chỉ hành động được xem là những dấu hiệu nghệ thuật, thông tin thẩm mĩ gợi tình huống để bộc lộ tình cảm ruột thịt khác thường, một tâm sự vô cùng hệ trọng…Ẩn sau là tâm trạng xót xa tột độ của Kiều trong lựa chọn ứng xử t ình - hiếu. 13. “Tuổi cao, tóc bạc , cái râu bạc” Nguyễn Trãi bẻ gẫy câu thơ ở chữ thứ năm và đáng lẽ theo đúng luật thơ phải để thanh bằng thì Ức Trai đã thay bằng thanh trắc: “cái” . Với dấu sắc này, tức là cái đầu ngang ngạnh, cái tay hắt ngược chòm râu, tức là tư thế phản kháng, tức là sự không khuất phục của Nguyễn Trãi. Đấy là giá trị âm thanh của một từ trong th ơ Việt Nam; đấy là ngòi bút, phép thơ, bản lĩnh, thân phận của Nguyễn Tr ãi trong một chữ, trong một tiếng. ( Xuân Diệu ) 14. “Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường” Câu Kiều diễn tả sự đau đớn khi Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh. “Ai ’’ở đây là ai? Là số phận nói chung hay còn là chính Kiều? hiểu được điều thứ hai thì câu thơ không chỉ là lời than than trách phận, mà còn là chính là lời tự dằn vặt, giày vò mình. Nàng vừa khuyên , vừa tiễn Thúc Sinh về, giờ đ ã tự đay nghiến mình, thương Thúc Sinh. Thật là một hình tượng sống động, một ngòi bút sâu sắc. 15. Mã Giám Sinh mua Kiều Mã Giám Sinh trong v ỏ bọc của nho sinh. Có thể thấy, khi đến gia đình Thuý Kiều, Mã Giám Sinh đã chuẩn bị rất chu đáo kĩ càng cho cái vỏ bọc nho sinh của mình. Hắn tự viết kịch bản – thuê diễn viên phụ, tự mình đạo diễn và sắm vai chính. Nhưng hắn diễn xuất quá tồi ( bởi l àm gì có thực tế) nên chân tướng của kẻ :“Mượn màu kẻ quý người thanh’’ đã bị phơi bày trước bàn dân thiên hạ. Hắn đích thị là tên nho sinh “rởm” . Thế mới hay những gì không thuộc về mình, không phải của mình thì có gắng gượng đến mấy cũng chẳng bao giờ th ành công. 16. Kiều ở lầu Ngưng Bích Những thanh điệu phong phú của tiếng Việt có khả năng biểu cảm rất lớn. Tám câu thơ cuối khác hẳn với phần đầu bởi nó đều đ ược bắt đầu với thanh bằng v à kết thúc cũng như vậy. Ở đây lại có sự góp mặt của nhiều từ láy tạo n ên một âm điệu trầm buồn, chậm rãi, lan toả, rưng rưng. Ấn tượng về nỗi buồn trong lòng Kiều vì thế mà càng thêm rõ nét. Cả những câu hỏi vang lên không lời giải đáp cũng biểu hiện một tâm trạng hụt hẫng, quẩn quanh , bế tắc. Kiều đang cố v ùng vẫy thoát ra khỏi thực tại mà không thể nào thoát được. 6 17. Kiều gặp Từ Hải Trong tiếng Việt, phụ âm “đờ” là một phụ âm tạo được ấn tượng về sự mạnh mẽ (âm thanh tiếng nổ “đùng đùng”, “đoàng đoàng”). Để gây được ấn tượng mạnh về chân dung của người anh hùng cái thế có cá tính mạnh mẽ, rắn rỏi, dứt khoát, thi h ào dân tộc Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều phụ âm “đờ”. Chỉ một đoạn thơ rất ngắn: Bỗng đâu có khách biên đình …. Gươm đàn một gánh, non sông một chèo. Chúng ta thấy tần xuất của phụ âm “đờ’ là rất lớn. Khi đọc chúng ta cũn g cảm nhận được sự mạnh mẽ , rắn rỏi, dứt khoát từ âm điệu lời th ơ. Đó là sự tinh tế trong việc sử dụng ngữ âm của tác giả. 18. BÁNH TRÔI NƯỚC - HỒ XUÂN HƯƠNG Không phải vô cớ mà thi sĩ đã chọn cho bài thơ một cấu trúc như vậy. hai câu thơ 3,4 cùng nói về những nỗi khổ của người phụ nữ đặt liền kề nhau cho ta một ý niệm: sống trong xã hội phong kiến bạo tàn, người phụ nữ thật lắm nỗi khổ đau, bất hạnh. Nỗi khổ nọ chất chồng lên nỗi khổ kia như muốn đè sấp người phụ nữ xuống – không cho họ có cơ may được ngẩng đầu, được đứng dậy sống một cuộc đời b ình thường. Bài thơ mở đầu bằng vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ và khép lại bằng phẩm giá tâm hồn. Năm tháng qua đi, cùng với những nỗi khổ đau, bất hạnh (câu 3,4), nhan sắc người phụ nữ có thể sẽ tàn phai song cái giá trị lớn nhất ở họ - cái không bao giờ có thể mất đi chính là vẻ đẹp tâm hồn – báu vật của họ, cũng như cái bánh trôi kia – cái nhân mật màu son mới làm nên sự đậm đà, khác biệt của bánh trôi với các loại bánh khác. Cả bài thơ cũng chỉ có màu son ở câu kết làm điểm nhấn. Cất cái màu son ấy đi, bài thơ sẽ chỉ còn lại sắc màu nhợt nhạt. 19. HỊCH TƯỚNG SĨ - TRẦN QUỐC TUẤN * “Ta thường tới bữa quên ăn….cam lòng” Tác giả đã dùng những lời lẽ rất tự nhiên, chân thành gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân (thành ngữ, khẩu ngữ), vận dụng điển tích một cách sáng tạo, dễ hiểu, cách nói khoa tr ương như ta thường thấy trong văn chương cổ, văn học dân gian.Tất cả đều đẩy đến mức tột c ùng để diễn tả những trạng thái tâm lí mạnh mẽ nhất. Lời văn vì thế mà đi thẳng vào lòng người, gây được sự đồng cảm, nỗi xúc động lớn lao. Nó phản ánh tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng - một công dân biết đau cái nhục lớn, đầy lòng căm thù sôi sục cùng ý chí quyết tâm đánh giặc tới cùng. Người xưa nói: kẻ nào rút gươm ra một cách hững hờ, kẻ đó có rất ít nhiệt t ình với sự nghiệp mà anh ta bảo vệ. Ở đây ta thấy Trần Quốc Tuấn đ ã vung gươm một cách quả quyết để tự làm gương cho chiến sĩ. * (Cách đối xử của tác giả với tướng sĩ) Đó là những việc làm rất khôn ngoan. Ông đã khéo léo gợi lại cách đối xử hậu hĩnh, chu đáo với thuộc tướng thể hiện tấm lòng bao dung, độ lượng, nhân hậu vừa thể hiện mối quan hệ chủ tớ bền chặt để l àm cơ sở vững chắc cho sự phê phán có lí, có tình. Điều đó cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là vị tướng giỏi về mặt chiến trận mà còn rất am hiểu đời sống tâm lí, t ình cảm của tướng sĩ. Ông muốn họ hiểu rằng: 7 ông có trách mắng, phê phán họ cũng đều xuất phát từ tình thương, nghĩa lớn - bảo vệ quyền lợi cho chính họ. Có thể nói với đoạn trích, tác giả - người nghệ sĩ tâm hồn- đã gẩy trúng sợi dây danh dự trong mỗi cây đàn tướng sĩ, khiến chúng cùng rung lên, cùng hoà một nhịp để tạo nên sức mạnh cộng hưởng, làm bừng dậy hào khí Đông A - sức mạnh quật khởi của cả dân tộc - yếu tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. 20. BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO - NGUYỄN TRÃI Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày Thành Đan Xá….đầm đìa máu đen. Những lời văn với âm điệu trầm buồn nh ư tiếng thở dài não nề, dường như Nguyễn Trãi đã thấu hiểu được nghịch lí đau lòng của chiến tranh: nó chỉ đem lại những đau thương chết chóc thảm khóc cho con ng ười. Ví như những người lính phải bỏ xác nơi đất khách quê người kia, họ trước hết cũng là những con người, họ ra đi bỏ lại sau lưng quê hương, làng xóm, nh ững người mẹ già, vợ trẻ , con thơ mỏi mắt trông chờ…Qua đó chứng tỏ tác giả - người đại diện cho tiếng nói của một dân tộc y êu chuộng hoà bình- có một tâm hồn cao đẹp, một trái tim gi àu cảm xúc nhân đạo. 21. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG - NGUYỄN DỮ (Phẩm hạnh của Vũ Nương) Xưa nay, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu vốn không mấy khi được êm thuận. Vậy mà cách ăn ở của Vũ Nương đến mức bà mẹ chồng đã nói với nàng những lời thật trân trọng, đầy yêu mến pha cả lòng biết ơn: “ Chồng con nơi xa xôi….con đã chẳng phụ mẹ”. Đó là phần thưởng xứng đáng cho sự hi sinh tận tâm của n àng. Nó lại càng có ý nghĩa khi được nói ra vào thời khắc thiêng liêng nhất ( con chim trước khi chết cất tiếng hót hay, con người trước khi đi xa cất lời nói phải). Lẽ ra với những điều tốt đẹp như vậy, Vũ Nương phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi chồng trở về - đúng như lời mong ước của bà mẹ chồng – nhưng trong xã hội phong kiến, liệu hạnh phúc có đến với nàng không? 22. MÂY VÀ SÓNG TAGO * “Mẹ ơi!” , mở đầu bài thơ là tiếng gọi thiêng liêng của đứa con bé bỏng ngây th ơ, để bắt đầu câu chuyện tâm tình của em với mẹ về những giây phút giao cảm thần ti ên của em với thiên nhiên, với mây và sóng. Với mây. Trò chơi của em bé quả là hay và thư vị hơn nhiều vì em không chỉ có mây – chính em là mây – mà còn có trăng - hiện than của mẹ. Không phải chỉ để c ùng chơi đùa như những người sống trên mây, mà để cùng sống dưới một mái nhà, cho em được ôm ấp, được tiếp nhận ánh sang dịu d àng. Trò chơi của em bé mang lại cho ta cảm nhận sự vĩ đại của tình mệ con. Trong tình cảm ấy đã chứa đựng cả thiên nhiên, cả vũ trụ. Những hình ảnh thơ thật đẹp, thật tương hợp và hàm chứa bao tình cảm được tạo bởi trí tưởng tượng kì diệu và tình yêu thiếu nhi nồng nàn của Tago đã sang tạo nên những vần thơ đẹp nói về hạnh phúc tuổi thơ. Ở đây tình mẫu tử được nâng lên ngang tầm vũ trụ. Với sóng. 8 “Con là sóng và mẹ là bến bờ Con lăn, lăn , lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào” Đoạn thơ kiến lập sự đối chiếu hàm ẩn. Hình ảnh thơ giàu chất triết lí. Không có bờ làm sao có sóng. Có bờ mới có sóng vỗ bờ. Cũng nh ư có mẹ mới có con. Lúc sóng vỗ cũng là lúc biển hát. Lúc “ con lăn, lăn …” là lúc mẹ vô cùng sung sướng. Vì thấy con ngoan và vui chơi là lòng mẹ hạnh phúc. Nhà thơ lấy sóng và bờ để nói với tuổi thơ bao điều. Câu cuối cùng có nghĩa là mẹ con ta ở khắp nơi, không ai có thể tách rời, phân biệt , chia cắt, cũng có nghĩa l à tình mẫu tử ở khắp nơi , thiêng liêng , bất diệt . * Bài thơ còn là tiếng thơ hồn nhiên, huyền ảo trong tự nhiên,tuổi thơ của mọi lứa tuổi và số phận vượt không gian và thời gian. Nhà thơ đã hóa thân thành em bé ngây th ơ nhỏ xíu. Tiếng thơ được cất lên từ cách nhìn, cách nghĩ, cách nói của em. Và trong thế giới của em, cả thế gian n ày, vũ trụ này bỗng được tái lập kì diệu, nên thơ, hư ảo, tuyệt vời. Ta bỗng quên hết, trút hết mọi nỗi ưu tư, bất hạnh để cùng với em bay trong cõi mộng giữa bao la, vũ trụ tràn ngập yêu thương…Từ nguồn sức mạnh bí ẩn nào đó, Tago đã hiến dâng cho đời những hiện tượng thơ lạ lùng đến thế - qua chúng, nhân loại tự phát hiện thêm mình, tự nâng cao thêm mình để mãi mãi ấp iu giữ gìn những phẩm chất nhân văn đẹp đẽ của chính mình. Bài thơ là tiếng lòng, đến thẳng với lòng ta và ở mãi trong ta. Đó là khúc hát kính dâng mẹ. 23. CỐ HƯƠNG - LỖ TÁN Trữ tình ngoại đề: “Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường là một hình tượng: - Con đường mưu sinh phải xa quê. - Con đường tình nghĩa (thăm quê). - Con đường đau khổ- hạnh phúc. - Con đường hi vọng đi lên phía trước. - Con đường mòn và con đường mới do phá lối mở đường. - Con đường đến với mỗi người là con đường số phận - Con đường của mỗi dân tộc là con đường cách mạng. (Qua tường thuật chuyện về quê, qua rung cảm trước sự thay đổi tàn tạ ghê gớm về quê hương, tác giả đã nêu lên tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới). 24. MỜI TRẦU - HỒ XUÂN HƯƠNG Câu thơ thứ hai : “Này của Xuân Hương đã quệt rồi” Đây là câu thơ thể hiện phong cách của Hồ Xuân H ương, một phong cách thông báo độc đáo, hiếm thấy trong văn học trung đại. Lần đầu ti ên và cũng là lần cuối cũng có thể là lần cuối cùng trong thơ ca trung đại Việt Nam, nhân vật trữ tình xuất hiện một cách công khai, đường hoàng “của Xuân Hương”. Đây cũng là cách khẳng định vai trò của một cá nhân – cá tính, đầy bản ngã trong xã hội phong kiến. 25. BẢO KÍNH CẢNH GIỚI SỐ 3 - NGUYỄN TRÃI 9 “ Rồi hóng mát thuở ngày trường” mới đọc qua câu thơ có vẻ an nhàn, êm đềm,thanh thoát. Một chế độ x ã hội đã suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đ ã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành từ quan về ở ẩn. Một tấm l òng “cuồn cuộn nước triều đông” mà đành phải ngồi hóng mát cả ngày để vơi đi tâm sự ( một gánh nặng với đất nước đang đè nặng lên vai ông ). Câu thơ lấp ló một tâm sự thầm kín, không c òn là sự nhẹ nhàng, thanh thản nữa. 26. THÚC SINH TỪ BIỆT THÚY KIỀU * Câu thơ: “ Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh” có thể so sánh với đoạn thơ trong “ Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ng àn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. để thấy Nguyễn Du đã sử dụng chất liệu này không có gì mới nhưng hoàn toàn sáng tạo: “ Ngàn dâu” càng dài càng rộng chừng nào thì niềm tin kia theo đó tỉ lệ nghịch, càng ít đi chừng ấy. Đến một lúc lá cây mịt mờ kia choán chật cả bầu trời, xóa mờ điểm nhìn thì niềm tin của người đưa tiễn càng trở nên vô vọng. * Hình ảnh “vầng trăng” trong “vầng trăng ai xẻ làm đôi” có thể so sánh với những hình ảnh vầng trăng khác theo suốt cuộc đời Kiều, hoặc so sánh với nh ưng câu thơ viết về sự trông đợi đến hao mòn cùng vầng trăng trong cảm nhận của người thiếu nữ trong câu thơ sau của Trương Cửu Linh đời Đường : “Nhớ chàng như mảnh trăng đầy. Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”. Nhà thơ này nghiêng về sự mòn mỏi, hao khuyết còn thi hào Nguyễn Du lại miêu tả vầng trăng qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Trăng vẫn tr òn đầy nhưng với đôi lứa trong xa cách n ên vầng trăng cũng như bị chia cắt trong tâm hồn họ để mỗi người chỉ còn mang theo bên mình một nửa vầng trăng chia biệt, t ê tái mà giữa nửa này với nửa kia sẽ không bao giờ hợp lại thành vầng trăng tròn đầy như trước kia nữa. 27. VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI Tiếng sáo “gọi hồn ” Mị. Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – nhà văn Tô Hoài đả miêu tả âm thanh của tiếng sáo đêm xuân như một thứ thuốc “gọi hồn” . Nhà văn đã hơn 6 lần miêu tả các trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “ tiếng sáo gọi bạn đầu làng”văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi ” mỗi lúc một gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị v à “lửng lơ” bay ngoài đường có khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm hồn. từng thanh âm của tiếng sáo với những cường độ và cao độ khác nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần l à tiếng đời, khi là tiếng lòng cứ không thôi thổn thức, dậy l òng trong lòng Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài đầy “giông tố” của cuộc đời. Từng tiếng sáo nh ư rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ, nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời : “ có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Lúc này đây, Mị cũng như Huệ Chi trong tiểu thuyết “Cửa biển” của nhà văn Nguyên 10