Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

3 giai đoạn phát triển của Văn học Việt Nam

d41d8cd98f00b204e9800998ecf8427e
Gửi bởi: Thành Đạt 28 tháng 10 2020 lúc 13:23:38 | Được cập nhật: 23 giờ trước (14:31:04) Kiểu file: DOC | Lượt xem: 518 | Lượt Download: 5 | File size: 0.086016 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Nếu quan sát văn xuôi Việt Nam hiện đại trong thế kỷ XX này chúng ta sẽ
thấy có ba giai đoạn phát triển chủ yếu.
Giai đoạn thứ nhất có thể kể đến là giai đoạn từ đầu thế kỷ đến năm
1945. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Nếu so với trước đó văn xuôi đã có bước phát triển đáng kể. Văn xuôi
của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Đông Hồ, Tương
Phố… không chỉ mới mẻ ở câu văn, lời văn, ngôn ngữ mà còn ở cách dẫn
chuyện, xây dựng nhân vật, kết cấu và cả những vấn đề hiện thực được đề
cập trong đó. Rồi tiếp theo là Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm, văn xuôi Tự
lực văn đoàn, và đặc biệt là văn xuôi hiện thực phê phán mà tiêu biểu là
Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… đã đưa văn
xuôi Việt Nam hiện đại lên đỉnh cao rực rỡ.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn từ 1945 đến 1975. Đây là giai đoạn
có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
của văn xuôi cũng như văn học nói chung. Cách mạng tháng Tám thành
công, một chế độ xã hội mới ra đời và tiếp theo là những năm tháng kháng
chiến trường kỳ và anh dũng của dân tộc để giữ gìn độc lập của Tổ quốc.
Văn học gắn chặt với sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc. Cho nên đặc điểm của
văn xuôi giai đoạn này là văn xuôi sử thi chiếm ưu thế. So với văn xuôi tiền
chiến, văn xuôi hiện thực phê phán cách tân quan trọng nhất của văn xuôi
giai đoạn này như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định là “phát triển ra nội
dung cộng đồng trong đời sống xã hội và phương tiện cộng đồng trong ý
thức cá nhân” (Lã Nguyên). Chưa bao giờ hình tượng Tổ quốc, hình tượng
tập thể, hình tượng nhân dân lại chiếm ưu thế và hiện lên rực rỡ như thế
trong văn học.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn sau 1975 đến nay. Từ sau 1975 đến
nay, tuy mới 15 năm (tính đến năm 1990, thời điểm mà bài báo này đề cập –
LTD), là một khoảng thời gian không dài, nhưng theo chúng tôi nó vẫn được
xem là một giai đoạn phát triển bởi vì nó có những đặc điểm khác với các
giai đoạn trước đó. Trong bài viết này, chúng tôi nhằm chứng minh điều đó.
Như mọi người đều biết, sau 1975, hiện thực đất nước ta bước sang
một thời kỳ mới, thời kỳ từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ đời sống

bất bình thường của “ngày có giặc” (chữ dùng của Hữu Thỉnh) chuyển sang
đời sống bình thường. Có những chuyện hôm qua văn học chưa kịp nói đến,
chưa được đề cập, còn phải nhìn một cách phiến diện thì nay có điều kiện đề
cập, để nhìn lại… Những điều này đòi hỏi văn xuôi phải chuyển kịp với thời
đại, phù hợp với hiện thực mới.
Có thể nói 15 năm qua văn xuôi đã có nhiều khởi sắc. Dĩ nhiên không phải
ai cũng thừa nhận sự khởi sắc đó. Thậm chí có người còn cho là có bước
thụt lùi. Trong bài Thời kỳ văn học vừa qua và xu hướng phát triển của
văn học, với tất cả sự thận trọng của một nhà nghiên cứu có kinh nghiệm,
Hoàng Ngọc Hiến đã khẳng định : "Thời kỳ văn học từ 75 đến nay đặc biệt
quan trọng cho sự định hướng sắp tới… Đến nay đã 15 năm nhưng vẫn còn
là sớm để thấy hết chân giá trị của những tác phẩm ra đời và những tác giả
xuất hiện được chú ý thời kỳ này, một thời kỳ phong phú các hiện tượng văn
học". Và theo ông, đây là thời kỳ của "một sự kinh nghiệm - bừng tỉnh" (1).
Với tư cách là Chủ tịch hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam, nhà văn
Bùi Hiển nhận xét : "Ngay từ đầu những năm 80, đặc biệt là trong văn xuôi,
sân khấu và điện ảnh đã bắt đầu xuất hiện những sáng tác mang nhiều sắc
thái mới” (2). Theo chúng tôi, đây là những nhận xét phù hợp với sự phát
triển của văn xuôi sau 1975.
Vậy thì sự phát triển của văn xuôi sau 75 như thế nào ? Đâu là những cách
tân và khởi sắc ?
Quan sát văn xuôi sau 75 chúng ta thấy có hai thời kỳ. Thời kỳ đầu là từ
1975 cho đến đầu năm 80. Văn xuôi thời kỳ này tuy có một số biến đổi như
mở rộng đề tài, đề cập
đến nhiều vấn đề hơn… nhưng về cơ bản vẫn
gần với đặc điểm của văn xuôi giai đoạn trước. Nghĩa là ở những sáng tác
này, cảm hứng sử thi vẫn giữ một vai trò quan trọng trong tư duy nghệ thuật.
Chúng ta nhớ đến những sáng tác văn xuôi ở thời kỳ này như Tháng ba ở
Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Năm 75 họ đã sống như thế của Nguyễn
Trí Huân, Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Nắng đồng bằng của
Chu Lai, Miền cháy của Nguyễn Minh Châu…
Phải từ những năm 80 văn xuôi mới thật sự có những bước chuyển đáng kể.
Trước hết là sự tự đổi mới của các nhà văn đã có sáng tác khá vững vàng ở
giai đoạn trước. Người ta thấy trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu, Bùi

1

Hiển, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng, Xuân Thiều,
Nguyễn Trọng Oánh, Lệ Lựu… đã bắt đầu có những đổi mới. Ở đây không
chỉ đổi mới ở phạm vi đề tài, vấn đề mà còn là ở tư duy nghệ thuật, cảm
hứng, cách viết… Nếu trước đây Lê Lựu là Người về đồng cói, Mở rừng thì
bây giờ là Thời xa vắng. Nếu Ma Văn Kháng trước đây là Xa phủ thì bây
giờ là Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú. Nếu
Nguyễn Quang Sáng trước đây là Chiếc lược ngà, Mùa gió chướng, Chị
Nhung…. thì bây giờ là Tôi thích làm vua, Thế võ… Rõ rằng tưrớc một
hiện thực mới, một công chúng mới không cho phép nhà văn viết như cũ. Sự
đổi mới của các nhà văn do đó gần như là một tất yếu sống còn của chính
họ. Trong số những nhà văn này không thể không kể đến một tên tuổi đã
mang đến sự đổi mới rất sớm trong những trang viết của mình, và cũng bằng
những trang viết đầy suy tư của mình đã dự cảm rất sớm những biến đổi của
xã hội. Đó là nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ngay từ sau 1975 và nhất là
những năm đầu thập niên 80 với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Bức tranh, Bến quê, Mẹ con chị Hằng… rồi Mảnh đất tình yêu, Khách ở
quê ra, Phiên chợ Giát, Cỏ lau… Nguyễn Minh Châu thực sự đã để lại
những trang viết của một kiểu tư duy nghệ thuật khác trước. Và chính ở đó,
nhà văn đã nêu lên được, phân tích, lý giải nhiều vấn đề có tầm bao quát
rộng lớn.
Đặc biệt với sự xuất hiện của một loại cây bút trẻ đã làm thay đổi hẳn bộ
mặt và diện mạo của văn xuôi. Các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh… đã mang lại cho văn xuôi những sắc
thái mới mẻ. Đọc những cây bút này, người ta có thể chê trách điều này,
điều nọ, thảo luận lại nhiều vấn đề, nhưng không thể không thừa nhận
những đổi mới mà học đã đem đến trong văn xuôi giai đoạn này.
Sau khi đã nhìn lướt qua một cách khái quát tình hình văn xuôi sau 1975 (ở
đây chủ yếu là tiểu thuyết và truyện ngắn, truyện vừa còn ký chúng tôi sẽ đề
cập ở một bài khác), có thể nêu lên một số đặc điểm để thấy rõ hơn bước
phát triển của văn xuôi giai đoạn này.
Trước hết có thể thấy rất rõ bước phát triển của văn xuôi trên bình diện tư
duy nghệ thuật. Văn xuôi của ta sau 75 đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang
tư duy tiểu thuyết . Cần phải nói ngay rằng sự đối lập giữa tư duy tiểu thuyết
và tư duy sử thi về mặt đặc trưng thể loại không có ý nghĩa phân biệt thang

bậc giá trị. Có những đề tài vấn đề có khi tiếp cận bằng tư duy sử thi lại có
giá trị hơn tư duy tiểu thuyết và ngược lại. Vấn đề là sự tương ứng giữa đề
tài với nội dung thể loại. Văn xuôi trước 75 chủ yếu là văn xuôi sử thi. Và
sự tiếp cận này về cơ bản là phù hợp với đối tượng mà nó phản ánh, cảm
hứng mà nó bộc lộ. Với kiểu tiếp cận này, văn xuôi giai đoạn này cũng đã
để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Điều này đã được nhiều người khẳng định,
không cần chứng minh lại ở đây.
Sau 1975 như đã nói, hiện thực đời sống đã khác trước, cần phải có cách
tiếp cận phù hợp. Điều đó đòi hỏi đổi mới tư duy nghệ thuật. Quá trình đổi
mới này đã diễn ra đầy khó khăn và thử thách. Tư duy nghệ thuật đã dần dần
chuyển sang tư duy tiểu thuyết là phù hợp với đối tượng phản ánh và là một
quá trình tất yếu trong sự phát triển của văn học.
Thật ra, tư duy tiểu thuyết không phải không có trong văn xuôi giai đoạn
trước. Trong văn xuôi 1930 - 1945 mà biểu hiện rõ nhất là trong văn xuôi
hiện thực phê phán tư duy tiểu thuyết đã chiếm một vị trí đáng kể. Nhưng
với văn học cách mạng 1945 - 1975 do đề cập đến những vấn đề lớn lao của
dân tộc, của cách mạng nên tư duy sử thi chiếm ưu thế. Đúng như Hoàng
Ngọc Hiến nhận xét : "Trong văn xuôi ta, tư duy tiểu thuyết thảng hoặc bộc
lộ ở một số tác phẩm đơn lẻ : Cha và con, và… của Nguyễn Khải, Thời xa
vắng của Lê Lựu, nói chung tư duy sử thi chiếm ưu thế" (3). Phải đến sau 75
và nhất là từ thập niên 80 tư duy nghệ thuật mới chuyển dân từng bước từ tư
duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Có thể thấy quá trình chuyển biến này
trong cả lớp nhà văn đã được khẳng định cũng như ở lớp nhà văn mới, xuất
hiện trong thời kỳ này. Đọc những Tâm tưởng của Bùi Hiển, Gió từ miền
cát của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam,… đã bắt
đầu thấy có cách tiếp cận khác trước. Ở đây không chỉ ngợi ca khâm phục
mà còn là sự phân tích, lý giải các hiện tượng của hiện thực. Nếu trước đây
chủ yếu là cách nhìn đơn diện, rạch ròi thiện ác, địch ta, cao cả thấp hèn…
thì bây giờ cách nhìn nhiều chiềuhơn, đa diện hơn, phức tạp hơn.
Đến Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu và nhất là ở lớp nhà văn trẻ
sau 1975 cách nhìn tiểu thuyết mới thật sự chiếm vị trí chủ yếu và trở nên có
sức thuyết phục trong việc nắm bắt và lý giải hiện thực.

2

Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện sau 1975 đã gây nên tranh
luận khá sôi nổi. Nhiều người cho rằng anh đã "xa đề tài trung tâm", rằng
trong sáng tác của anh "chủ đề không rõ ràng", rằng những nhân vật mà anh
đề cập là "dị thường", "không có trong hiện thực", v.v… và v.v… Thật ra
Nguyễn Minh Châu đã tiếp cận hiện thực từ một cách khác, cách nhìn tiểu
thuyết nghiêng về khía cạnh đời tư, khía cạnh đời sống cá nhân phức tạp. Từ
đó nhằm nêu lên những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh rộng lớn, không chỉ
dừng lại ở chiến đấu và xây dựng. Những ai quen với cách đọc cũ, cách tiếp
cận cũ dễ dàng từ chối cách viết này. Một chiếc thuyền ngoài xa là đề tài
quen thuộc về một ngư phủ trong sương, nhưng cũng có thể ẩn chứa trong
đó nỗi đau số phận con ngưới, biết bao cay đắng, nhục nhã, nhọc nhằn mà
vẫn phải chấp nhận (Chiếc thuyền ngoài xa ). Bức tranh chân dung người
chiến sĩ có thể làm người họa sĩ được giải thưởng quốc tế, mà cũng có thể vì
nó mà bao bà mẹ trở thành mù lòa vì khóc con. Và đấy chính là nỗi ân hận
day dứt suốt đời của ngưới họa sĩ đã từng được giải quốc tế. Thì ra đằng sau
chân dung người chiến thắng có nỗi đau của các bà mẹ (Bức tranh ). Tính
nhiều chiều trong cách nhìn hiện thực đó trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu đã làm cho truyện ngắn của ông trở nên có chiều sâu, đậm chất triết
luận.
Thời xa vắng của Lê Lựu cũng được bạn đọc đón nhận một cách
nồng nhiệt. Có lẽ trước hết là vấn đề mà ông nêu ra : nhận thức lại một thời
mới đây thôi mà tưởng như xa vắng từ thủa nào. Ấy là cái thời con người
chỉ tưởng có lạc quan, chỉ là anh hùng mà không được biết đến bi kịch, nỗi
đau riêng tư. Lê Lựu đã chỉ ra khía cạnh ấy. Người anh hùng Giang Minh
Sài đã làm nên bao chiến công vang dội, bao chiến tích vẻ vang nhưng chính
cuộc đời anh đầy cay đắng, bi kịch. Cái mà tác giả quan tâm không phải là
những chiến công, ở sự ngưỡng vọng mà chính là nỗi đau nhân thế của
người anh hùng. Thành công củaThời xa vắng về phương diện tiểu thuyết
chính là chính ở chỗ này.
Đặc biệt văn xuôi của một loạt cây bút trẻ đã làm thay đổi hẳn diện mạo của
văn xuôi thời kỳ này, mà nổi bật trong số họ là Nguyễn Huy Thiệp. Có thể
nói trong văn xuôi đương đại của ta, chưa có một tác giả nào vừa xuất hiện
mà lại gây tranh luận dữ dội như Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng không chỉ
người khen anh mà cả người chê anh, nói như Nguyễn Kiên, " những người
chê anh dữ dội cũng công nhận anh có tài " (4). Cái tài của Nguyễn Huy

Thiệp chính là ở chỗ đã thay đổi hẳn cách viết, cách tư duy trong truyện
ngắn mà nói rộng ra là trong văn xuôi. Đó là lối tư duy tiểu thuyết đã có ở
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu… được Nguyễn Huy Thiệp phát
triển đến cao độ. Văn xuôi của ta, nói như Hoàng Ngọc Hiến, chủ yếu là kể
lại nội dung chứ chưa phải là văn xuôi viết lại nội dung. Với văn xuôi kể
lại nội dung thì vấn đề quan tâm là kê lại cái gì ? Còn với văn xuôi viết lại
nội dung thì cái quan tâm là kể lại như thế nào ? Tâm thế kể lại nội dung
đễ đưa văn xuôi trượt theo văn đưa tin, loại văn này bao giờ cũng có độc giả
của nó, nếu đưa tin những chuyện có ý nghĩa giáo huấn sẽ được đánh giá là
cần thiết, có ích, kịp thời…Nếu đưa tin những chuyện lạ, giật gân có khi sẽ
được công chúng rộng rãi mến mộ. Trong văn xuôi viết lại nội dung sự kết
hợp "viết cái gì" và "viết như thế nào" tạo ra sức căng cho câu văn, mạch
văn, làm cho câu văn có giọng, có hồn, không bị "bẹt", bị "ỉu xìu"(5). Văn
xuôi của Nguyễn Huy Thiệp cũng như của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu, Lê Lựu, … thuộc loại "viết lại nội dung". Ở họ, chúng ta thấy không
chỉ là việc nêu lên vấn đề gì, mà còn cả việc nêu vấn đề đó như thế nào nữa.
Và do đó tác phẩm của họ thường mang tính đa nghĩa, nhiều tầng, nhiều
nlớp. Nếu quên với văn xuôi đơn nghã thì đọc loại này dễ buộc tội là "rối
rắm", "khó hiểu"… Cho nên chúng ta không ngạc nhiên là trong những bài
tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp đã có không dưới năm sáu bài bàn về cách
đọc truyện ngắn của tác giả này. Với Tướng về hưu chẳng hạn, Nguyễn
Huy Thiệp không chỉ thông tin với bạn đọc về người anh hùng hôm qua
giữa đời thường hôm nay, mà ở đây thông qua hình tượng vị tướng giữa đời
thường tác giả lại viết lên những nội dung khác, mà những nội dung đó phải
đọc đằng sau những câu chữ, hình tượng cụ thể : sự băng hoại đạo đức, quan
niệm về con người, cuộc đời, các chuẩn mực về đời sống cần được xem xét
lại như thế nào …?
Phải nói rằng tư duy tiểu thuyết ngày càng đắc dụng và chiếm ưu thế
trong văn xuôi sau 1975, nhất là trong truyện ngắn. Nhà văn Nguyên Ngọc
đã có một cảm nhận đúng khi cho rằng : "Một số truyện ngắn gần đây
(như Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh… chẳng hạn) lại có tính chất
tiểu thuyết hơn cả những sách có ghi là tiểu thuyết hẳn hoi"(6).
Tư duy tiểu thuyết đã đưa lại sắc diện mới cho văn xuôi không phải
chỉ những mảng đề tài mới được đề cập, mà cả ngay ở mang đề tài vốn quen

3

thuộc như sản xuất, chiến đấu trước đây. Chẳng hạn ở mảng văn xuôi viết về
chiến tranh sau 1975, với cách nhìn tiểu thuyết cũng có những biến đổi khác
trước. Có thể kể ra một số sáng tác như : Họ cùng thời với những ai của
Thái Bá Lợi, Gió từ miền cát của Xuân Thiều, Không phải trò đùa của
Khuất Quang Thụy… Văn xuôi mảng đề tài này trước đây đều được quan
tâm chủ yếu là chiến công, lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì lý tưởng thì
bây giờ không chỉ là những điều đó mà còn chú ý đến số phận riêng tư của
từng cá nhân, từng con người trong cái khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh.
Đọc Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy người ta thấy là một tiểu
thuyết về chiến tranh nhưng rất ít tiếng bom rơi, đạn nổ. Cái mà tác giả quan
tâm ở đây là số phận những người lính trong cuộc chiến đấu đó như thế nào.
Họ hành động, suy nghĩ thể nghiệm mình trong khói lửa chiến tranh. Và
ngọn lửa chiến tranh đã làm lộ ra đâu là những phẩm chất tốt đẹp, đầy lòng
nhân ái, đâu là những kẻ dối trá, phi nhân. Người lính ở đây kông chỉ hát bài
hát của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà còn là hiện thân của nỗi suy tư
về số phận con người trong chiến tranh.
*
Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật trong văn xuôi sẽ dẫn đến hệ quả tất
yếu là thay đổi các yếu tố thuộc về cơ cấu của văn xuôi như bút pháp, nhân
vật trung tâm, hệ vấn đề, cốt truyện, hệ đề tài, lời văn… Chẳng hạn về bút
pháp văn xuôi của ta sau 75 nhìn chung thay đổi khác so với trước. Xin dẫn
ra đây ý kiến của nhà văn Bùi Hiển về vấn đề này : "Theo nhận xét riêng của
tôi về khuynh hướng "hiện đại hóa" trong văn xuôi hiện nay, một trong
những đặc điểm bút pháp của nó là trầm tĩnh hơn, tỉnh táo hơn, bớt đi vẻ say
sưa, nồng nhiệt so với những sáng tác trước đây về cách mạng và kháng
chiến, tạo một khoảng cách nhất định với đối tượng miêu tả, do đó bình thản
hơn, trí tụê hơn, thấm đậm hơn giọng điệu phê phán, bình giá, trên cơ sở
một cái nhìn thiên về bề sâu tâm tưởng, ý nghĩa nhân sinh, tuy nhiên không
vì thế mà lạnh lùng khô héo, trái lại nữa, qua giọng điệu lời văn ta vẫn thấy
cái hơi ấm nhân tình" (7). Cái mà nhà văn Bùi Hiển nêu lên về mặt bút
pháp như trầm tĩnh hơn, tỉnh táo hơn, ít vẻ say sưa nồng nhiệt và thấm
đậm giọng điệu phê phán, bình giá… thực chất là kết quả của tư duy tiểu
thuyết, của cách tiếp cận tiểu thuyết đối với hiện thực. Cũng như giọng hào
hùng của văn chương một thời là kết quả của cảm hứng sử thi, tư duy sử thi.

Không chỉ bút pháp thay đổi, nhiều phương diện khác của văn xuôi cũng
được biến đổi cho phù hợp. Chúng tôi xin lại phân tích kỹ hơn về sự thay
đổi thể tài, một bước phát triển đáng chú ý của văn xuôi sau 75.
Văn xuôi 1945 - 1975 về thể tài mà nói thì thể tài lịch sử - dân tộc chiếm vị
trí chủ đạo, quyết định toàn bộ diện mạo thể tài, hệ thống thể loại của văn
xuôi ta. Và do đó, văn xuôi ở thời kỳ này có tham vọng trở thành bức tranh
hoành tráng về lịch sử dân tộc. Trong văn xuôi ở thời kỳ này, thể tài đời tư
và thể tài thế sự giữ một vị trí thứ yếu không đáng kể. Nói chính xác hơn,
thể tài đời tư và thể tài đạo đức thể sự không phải hoàn toàn vắng bóng
trong những giai đoạn này. Những chuyện đổi đời nhờ cách mạng, những
chuyện con người lớn lên nhờ cách mạng, hay những chuyện gác tình riêng
vì việc chung… đầy rẫy trong văn học giai đoạn này không thể không khai,
thác những yếu tố đời tư. Nhưng những chuyện đời tư như vậy thường trở
thành một yếu tố chức năng của thể tài lịch sử dân tộc, bị chi phối và phối
thuộc vào thể tài này. Ngoài chức năng phối thuộc này, thể tài đời tư cũng
như thể tài đạo đức - thể sự ít phát triển với tư cách là thể tài độc lập.
Khác với giai đoạn trước, giai đoạn sau 75, thể tài đời tư và thể tài đạo đức thế sự phát triển mạnh mẽ, và dần dần trở thành thể tài chính yếu của văn
xuôi sau 75. Có thể kể đến các tác giả và các tác phẩm thuộc thể tài này như
Nguyễn Khải với Cha và con, và…, Giữa cõi nhân gian bé tí…; Nguyễn
Minh Châu với Bức tranh, Bến quê, Khách ở quê ra… ; Vũ Huy Anh
vớiCuộc đời bên ngoài ; Vũ Tú Nam với Sống với thời gian hai chiều ; Lê
Lựu với Thời xa vắng,Dương Thu Hương với Những bông bần li, Ngôi
nhà trên cát… ; Bùi Hiền với Tâm tưởng ; Xuân Thiểu với Gió từ miền
cát, Người mẹ tội lỗi ; Nguyễn Huy Thiệp với các truyện ngắn trong Tướng
về hưu, Nguyễn Quang Lập với Một giờ trước lúc rạng sáng, Những
mảnh đời đen trắng ; Phạm Thị Hoài với Mê lộ, Thiên sứ ; Ma Văn Kháng
với Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú; Trần Văn
Tuấn với Ngày thứ bảy u ám, Ngày không giờ v.v…, và v.v…
Phát triển thể tài thế sự đời tư văn chương có khả năng đi sâu vào ngõ ngách
tâm hồn con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế, nhất là trong
hoàn cảnh một xã hội từ trong chiến tranh ba mươi năm bước sang đời sống
hòa bình đầy phức tạp và thử thách. Con người bình thường, con người đời
thường được miêu tả sâu sắc. Nhiều truyện ngắn, truyện vừa và cả tiểu

4

thuyết nữa đã tập trung miêu tả những con người bất hạnh với những bi kịch
đời họ. Đấy là cái bi kịch của một thời con người tự hy sinh cá nhân để
vươn tới cái tập thể một cách giản đơn, cứng nhắc để rồi suốt đời thất bại
(Thời xa vắng). Đấy là cái bi kịch chấp chới giữa danh vọng và tình yêu với
những tính toán thấp hèn không dám chịu trách nhiệm cuối cùng đều trở
thành ảo ảnh cả (Bên kia bờ ảo vọng). Đấy còn là những bi kịch của những
ân hận xót xa, dằn vặt vì những lỗi lầm mà con người vô tình hay cố ý gây
ra (Con ăn cắp, Bức tranh)… Hình như trong văn xuôi có một khuynh
hướng nổi lên rất rõ là khuynh hướng nhận thức lại một thời. Có người xem
đó là thời xa vắng, có người xem đó là một thời lãng mạn, lại có người xem
đó là thời của những thiên đường mù… Dù những nhìn nhận ngày có chỗ
phải bàn lại, nhưng với cách nhìn đó hiện thực được đào sâu hơn, và cái
quan trọng là mang đến trong văn xuôi tính phân tích, tính triết luận rất
đáng quan tâm. Đây là cái phẩm chất mà văn xuôi một thời thiếu vắng. Bởi
như chúng ta đã biết, văn xuôi sử thi rất giàu chất thơ, thấm đẫm chất tráng
ca, nhưng đó là văn xuôi ca ngợi những vẻ đẹp khác nhau của con người và
xã hội trên bình diện lịch sử - dân tộc, do đó nó ít tính chất phân tích lý giải.
Văn xuôi thế sự trái lại đầy nếm trải, suy tư, chiêm nghiệm, phanh phui, mổ
xẻ sự vật hiện tượng để đi đến cùng cái bản chất của nó.
Cái "trạng thái thái nhân thế" (chữ dùng của Hégei) trong văn xuôi sử thi
không phải không có, nhưng ở đó chủ yếu vẫn là trạng thái thời thế của vận
mệnh lịch sử dân tộc. Với trạng thái đó, người ta thường nói tới "nhân dân
ta, thời đại ta, đất nước ta". Còn phương diện thời thế như là nhân tình thế
thái mà con người tồn tại, suy gẫm trong đó ít được đề cập. Trong văn xuôi
sau 75, trạng thái nhân thế này không những được đề cập mà còn được cắt
nghĩa, phân tích, lý giải. Người đọc thấy mình cũng được soi mình trong
trạng thái nhân thế đó. Đọc Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
chẳng hạn, người đọc thấy sự phát triển xô bồ của Lý cũng như sự phát triển
đơn giản của ông trong đời sống cá nhân đều là sự phản ảnh của những trạng
thái nhân thế khác nhau mà xã hội chúng ta đã và đang trải qua. Nêu điều
này tác phẩm có ý nghĩa cảnh tỉnh và nhận thức rất sâu sắc. Các trạng thái
nhân tình thế thái trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh
Châu, Dạ Ngân, Phạm Thị Hoài, trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải, Trần
Văn Tuấn, Ma Văn Kháng, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Quang Lập, Lê Lựu
đều góp phần đáng kể trong việc nhận thức và lý giải hiện thực trong thời
hiện tại cũng như trong quá khứ.

Có thể nói văn xuôi thế sự, đời tư đã phần nào đáp ứng được nhu cầu phân
tích, lý giải suy tư về con người, xã hội của một thời đầy biến động. Đấy là
một bước phát triển quan trọng của văn xuôi phù hợp với yêu cầu của hiện
thực, của đối tượng phản ánh. Và do đó, văn xuôi sau 75 cũng đã gặt hái
được những thành tựu nhất định.
*
Những phát triển về tư duy nghệ thuật, thế tài, bút pháp, giọng điệu, lời
văn… của văn xuôi cũng như của văn học nói chung suy cho cùng đều bắt
nguồn từ sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Một khi mà quan
niệm nghệ thuật về con người chưa thay đổi thì các phương tiện thể hiện
chúng cũng chưa thay đổi, nhiều lắm chỉ là những biến đổi bộ phận. Chỉ có
sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người mới tạo ra sự biến đổi toàn
diện của văn xuôi cũng như văn học nói chung.
Quan niệm nghệ thuật về con người được xem như là cách tân quan trọng
nhất của văn học cách mạng là thoát khỏi cái nhìn bế tắc về con người để
hướng tới cái nhìn con người làm chủ vận mệnh của đất nước, dân tộc và
cả vận mệnh của chính mình. Với quan niệm này con người được thể hiện
chủ yếu trong văn học ta trong mấy chục năm qua là con người phơi phới
lạc quan, dù gặp muôn ngàn khó khăn gian khổ nhưng cuối cùng nhất định
chiến thắng. Đấy là những con người luôn luôn quên mình vì sự nghiệp
chung, quên mình vì nghĩa lớn, quên mình vì tập thể. Đấy là những con
người đầy ý chỉ, nghị lực đầy niềm tin với tấm lòng vì Tổ quốc, vì nhân dân,
vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Con người trong văn xuôi kháng chiến và văn
xuôi xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung không nằm ngoài quy luật này.
Trong văn xuôi sau 75, quan niệm nghệ thuật về con người đang dần dần
hướng về con người cá nhân, con người của những số phận riêng tư. Dĩ
nhiên là không quay trở lại con người cá nhân chủ nghĩa của văn học một
thời đã từng bị phê phán. Không phải ngẫu nhiên mà khi Thời xa vắng ra
đời có người đã thốt lên : "Hình như trong xã hội ta cá nhân đang ra đời"
(8). Từ những hình tượng tập thể và quần chúng văn xuôi ngày càng quan
tâm xây dựng các hình tượng có tính chất , có cá tính và có số phận riêng tư.
Từ những hình tượng tiêu biểu cho ý chí cách mạng, văn xuôi giai đoạn này
đã xây dựng nên những tính cách đầy đặn trong mối liên hệ nhiều chiều của

5

con người. Nhờ đó các nhân vật tồn tại như một nhân cách, chứ không còn
là một ý niệm. Nó cũng khác với con người giai cấp, con người dân tộc có
tính chất đơn điệu của một thời. Đó là con người cá tính. Đúng như Ma Văn
Kháng viết : "Phải chăm lo cho từng người. Cá tính mãi mãi tồn tại và đòi
hỏi được quan tâm". Và nó không những được quan tâm mà đã trở thành đối
tượng thẩm mỹ quan trọng của văn học đương đại.
Trên khuynh hướng chú ý đến con người cá nhân, trong văn xuôi sau 75 ở
nhiều nhà văn đã làm rõ nét hơn quan niệm này. Người ta thấy con người
sám hối, con người thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Con người cô đơn đầy cay đắng
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Con người vừa anh hùng vừa hèn hạ
trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập… Các thanh sắc khắc nhau ấy đã tạo
cho văn xuôi sau 75 một diện mạo đa diện, hấp dẫn. Nếu trong văn xuôi sử
thi quan niệm về con người tốt xấu rạch ròi, thì ở giai đoạn này con người
được nhìn nhận trong cái đa diện của nó. Một kẻ từng được xem như là anh
hùng có thể trong một phút nào đó là một tên hiếp dâm để rồi suốt đời ân
hận, day dứt khôn nguôi về lỗi lầm ấy (Đò ơi - Nguyễn Quang Lập). Trương
Chi khát khao bài hát của tình yêu, nhưng rồi cũng phải hát bài hát đông
người, bài hát ca ngợi danh vọng, tiền tài để rồi kết thúc tiếng hát cũng là
lúc văng tục (Trương Chi - Nguyễn Huy Thiệp). Một người chạy theo lối
sống xô bồ tưởng như chỉ bỏ đi như Lý trong Mùa lá rụng trong vườn vẫn
khiến chúng ta xe xót, cảm thương và cả phần nào quý trọng. Quả là văn
xuôi sau 75 đã mở rộng cái nhìn đối với quan niệm nghệ thuật về con
người. Đó là cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Vì lẽ này mà không ít nhà
nghiên cứu phê bình văn học đã khuyên nhiều dấu son cho văn xuôi giai
đoạn này với lời phê "đời hơn", "thực hơn"…

Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người đã đưa đến việc thay đổi hệ
thống miêu tả, phương thức thể hiện, phương thức tư duy, thể tài… tạo nên
bước phát triển đáng kể của văn xuôi sau 1975.
*
Tóm lại, có thể thấy, dù chỉ trong khoảng 15 năm thôi, văn xuôi 1975 - 1990
đã có những phát triển đáng kể. Sự phát triển này không chỉ ở chỗ ngày càng
xuất hiện đông đảo đội ngũ các nhà văn, ngày càng nhiều tác phẩm mới ra
đời, mà cái quan trọng hơn, sự phát triển của văn xuôi được ghi nhận trên
việc đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, đổi mới tư duy nghệ thuật,
đổi mới thể tài và phương thức thể hiện… Tất cả những phát triển này
không chỉ là luận chứng chứng tỏ bước phát triển của văn xuôi sau 75, mà
còn là cơ sở để xem văn xuôi sau 75 là một giai đoạn phát triển độc lập
trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Văn xuôi Việt Nam sau
1975 là một hiện tượng đang phát triển.
Rồi đây sẽ có những nhận xét, những đánh giá khác phù hợp hơn với sự phát
triển này. Do đó những suy nghĩ được trình bày trong bài viết này chỉ xin
được xem như là những suy nghĩ bước đầu.

Thế là gần như văn học nói chung, văn xuôi nói riêng đã đi trọn một đường
trôn ốc trên con đường chiếm lĩnh con người bằng nghệ thuật. Gạt bỏ con
người cá nhân chủ nghĩa trong văn học trước cách mạng, văn học cách mạng
nhận thức con người như một chủ thể của lịch sử, và con người tập thể là âm
chủ của văn học 1945 - 1975. Ở giai đoạn sau 75 văn xuôi trở lại con người
cá nhân nhưng ở trình độ phát triển cao hơn, không phải kiểu con người cá
nhân chủ nghĩa, mà là một nhân cách với đầy đủ tính chất phức hợp của nó.

6